Nghiên cứu biến đổi xã hội nói chung và biến đổi cơ cấu xã hội nói riêng là đòi hỏi cấp bách trong nhận diện thực trạng, xu hướng vận động và phát triển xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, trước hết cần định danh về mặt khoa học hệ thống các khái niệm công cụ làm căn cứ lý luận cho quá trình triển khai nghiên cứu thực trạng.
Ảnh minh họa
Biến đổi xã hội
Biến đổi xã hội là một đặc trưng chung của mọi xã hội. Tất cả các xã hội luôn tồn tại trong quá trình vận động và phát triển (hoặc suy thoái). Chính sự vận động đó là quá trình liên tục diễn ra biến đổi xã hội. Theo các nhà nghiên cứu xã hội hiện đại, chính trong quá trình đó mà các thành tố của cấu trúc xã hội, các giá trị, chuẩn mực, thiết chế, quan hệ xã hội, hệ thống phân tầng xã hội biến đổi theo thời gian.
Về cơ bản, sự biến đổi xã hội thường diễn ra theo hai quá trình kiến tạo và truyền bá. Đó là sự kết hợp hai hay nhiều nhân tố đang tồn tại và vận động thành các quy tắc sử dụng mới. Kiến tạo bao gồm cả vật chất, vật chất, văn hóa và cấu trúc xã hội. Xã hội càng phức tạp và đa dạng thì biến đổi càng diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ.
Những nhân tố ảnh hưởng đến biến đổi xã hội rất phức tạp. Ta có thể phân chia thành nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Nhân tố bên trong xuất phát từ bên trong một cơ thể xã hội cụ thể và bao giờ cũng diễn ra những biến đổi quan trọng trong tổ chức và cấu trúc xã hội. Các nhân tố bên ngoài thường được nhắc đến là: cách mạng công nghệ - kỹ thuật, tư tưởng, xung đột và bất bình đẳng cấu trúc. Các nhân tố bên ngoài có nguồn gốc từ môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội cụ thể mà xã hội đó tồn tại. Chính sự tương tác giữa hệ thống xã hội cụ thể với môi trương tự nhiên - xã hội bên ngoài mà cả hai cùng biến đổi. Tuy nhiên ở đây chỉ quan tâm tới sự biến đổi của một xã hội cụ thể. Một nhân tố bên ngoài của sự biến đổi thể hiện rõ nhất là quá trình truyền bá trong tương tác lẫn nhau giữa hai hệ thống bên trong và bên ngoài. Đó thực tế là sự giao tiếp và trao đổi với nhau thông tin và tư tưởng một cách thường xuyên.
Nhà xã hội học T.Parsons giải thích biến đổi xã hội xuất phát từ hai nguồn gốc: có thể do tác động từ bên ngoài hệ thống xã hội cũng có thể do sự căng thẳng từ chính bên trong hệ thống. K. Marx giải thích mọi xung đột và biến đổi xã hội suy đến cùng đều bắt nguồn từ xung đột giai cấp, do mâu thuẫn lợi ích giai cấp. Theo K. Marx, điều kiện vật chất là cơ sở của xung đột và các quan hệ kinh tế cơ bản quyết định cấu trúc xã hội. Giải thích về điều này, M. Weber cho rằng thị trường mới chính là cơ sở kinh tế của giai cấp chứ không phải là tài sản kinh tế. Ông khẳng định, yếu tố quan trọng cho sự di động xã hội đi lên của cá nhân hay nhóm xã hội là khả năng chiếm lĩnh thị trường.
Nghiên cứu về biến đổi xã hội ở nước ta nhiều năm qua chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ triết học với quan niệm chung là sự vận động và phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, là sự thay thế nhau của các hình thái - kinh tế xã hội. Thời gian gần đây, khi xã hội học ngày càng trở thành một ngành khoa học quan trọng trong nghiên cứu xã hội thì đa số các nghiên cứu về biến đổi xã hội được tiếp cận dưới góc độ xã hội học. Các lý thuyết xã hội học được vận dụng trong nghiên cứu xã hội học về biến đổi xã hội phổ biến là: thuyết tiến hóa, thuyết chức năng - cấu trúc và thuyết xung đột gắn liền với tên tuổi của các tác giả: A. Comte, T. Parsons, M. Weber và K. Marx.
Cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là một trong những vấn đề trung tâm của nghiên cứu xã hội, vì lẽ đó, hầu như các ngành khoa học xã hội đều nghiên cứu cơ cấu xã hội theo cách tiếp cận và mục đích của mình. Có thể nêu, một số ngành khoa học xã hội cơ bản nghiên cứu cơ cấu xã hội là: triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế học, chính trị học, sử học và xã hội học. Các thành tựu nghiên cứu về cơ cấu xã hội trên thế giới thời kỳ cận - hiện đại thường gắn liền với tên tuổi của các nhà triết học, xã hội học như: K. Marx, F. Enggels, A. Comte, M. Weber, H. Fischer, I Robertson,…
Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu xã hội, tuy nhiên, có thể nêu một cách chung nhất, cơ cấu xã hội là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trọng của một hệ thống xã hội nhất định, đó là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản nhất cấu thành hệ thống xã hội. Những thành tố của cơ cấu xã hội tạo nên xã hội loài người. Trong đó, những thành tố cơ bản là: nhóm, vị thế, vai trò xã hội, mạng lưới xã hội và thiết chế xã hội.
Định nghĩa này nêu bật được các đặc trưng cơ bản của cơ cấu xã hội sau:
Thứ nhất, cơ cấu xã hội không những được xem là tổng thể, một tập hợp các bộ phận cấu thành xã hội, mà còn là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội. Như thế xã hội loài người, rõ ràng cũng giống như mọi khách thể vật chất khác, là một hệ thống cơ cấu hay một cấu trúc nhất định, bao gồm những thành tố, các mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò và chức năng nhất định. Cơ cấu xã hội luôn được xem xét trong sự gắn bó với khái niệm hệ thống xã hội, tuy nhiên, khái niệm cơ cấu xã hội hẹp hơn nó chỉ phản ánh bộ khung, dạng thức kết cấu bên trong của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội.
Thứ hai, cơ cấu xã hội được xem là sự thống nhất bên trong của các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội. Quan niệm này khắc phục được sự phiến diện khi qui cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội; cũng khắc phục được sự tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Đúng ra, cơ cấu xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội. Sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội xuất phát từ sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt, các mối liên hệ các yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội.
Thứ ba, khi nhìn nhận cơ cấu xã hội “bộ khung” tạo dựng cơ thể xã hội cho ta biết được một xã hội cụ thể nào đó được cấu thành từ những nhóm xã hội nào. Nhóm lớn như: một quốc gia, dân tộc, giai cấp, chính đảng, tầng lớp; nhóm nhỏ như: một tổ chức, cơ quan, xí nghiệp, lớp học... Cũng qua đó ta thấy được vị thế, vai trò và mạng lưới của từng cá nhân, từng nhóm xã hội, các thiết chế xã hội và các quan hệ xã hội...
Các thành tố cấu thành cơ cấu xã hội
- Nhóm xã hội: Đó là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, nhu cầu, lợi ích và những định hướng xã hội nhất định. Nhóm xã hội thường được chia thành 2 loại: Nhóm nhỏ và nhóm lớn. Nhóm nhỏ là một tập hợp gồm ít người, các thành viên quan hệ với nhau trực tiếp và ổn định với tư cách cá nhân. Nhóm lớn là tập hợp các cộng đồng nhóm, được hình thành bởi những dấu hiệu xã hội chung có liên quan đến đời sống trên cơ sở của một hệ thống quan niệm xã hội hiện có. Bên cạnh đó, người ta còn phân chia thành các cặp nhóm khác nhau như: nhóm chính nhóm phụ, nhóm chủ yếu nhóm thứ yếu, nhóm căn bản nhóm không căn bản…
Trong các lý thuyết xã hội học về nhóm ta còn bắt gặp sự phân chia nhóm thành nhóm quy ước và nhóm tự nhiên. Nhóm quy ước là loại nhóm do con người tạo lập vì những mục đích nhất định. Nhóm tự nhiên là những nhóm tồn tại thực một cách không tuân theo một chủ ý riêng trong đời sống xã hội. Nhóm quy ước mang tính ước lệ, tạm thời không bền vững và phục thuộc vào ý muốn của người tạo ra nó. Nhóm tự nhiên tồn tại, vận động và phát triển theo những qui luật khách quan. Nghiên cứu cơ cấu xã hội cần nhận thức đúng hai loại nhóm này bởi lẽ cơ cấu xã hội được tạo nên chỉ bởi các nhóm tự nhiên.
Vị thế xã hội: Vị thế hay còn được gọi là vị trí trong cấu trúc xã hội. Tuy nhiên, vị thế còn nói lên thế và lực của chủ thể. Vị thế quyết định chỗ đứng và phương thức ứng xử của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Tùy theo các góc độ khác nhau mà mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có những vị thế khác nhau. Trong quan hệ xã hội, thường vị thế nghề nghiệp mang ý nghĩa quan trọng hơn cả, nó qui định những đặc trưng riêng của cá nhân hay nhóm xã hội.
Vị thế xã hội có các đặc điểm: Không nhất thiết gắn với người có uy tín và địa vị cao; Không phụ thuộc vào ý kiến của mỗi người về bản thân; Vị thế của mỗi người cần đối chiếu hay gắn với những tiêu chuẩn khách quan của xã hội; Vị thế của mỗi người là vị trí xã hội của người đó được xã hội thừa nhận và suy tôn; Vị thế mang tính ổn định tương đối…
Vị thế xã hội có các nguồn gốc: Dòng dõi, của cải, nghề nghiệp, chức vụ và quyền lực; trình độ học vấn và các cấp bậc, chức sắc tôn giao, thân tộc… Vị thế xã hội thường được chia làm 4 loại: Vị thế tự nhiên là những đặc trưng, thiên chức mang tính chất mặc định khó có thể thay thế như chủng tộc, giới tính, tuổi; Vị thế xã hội là những đặc trưng, vai trò, nghĩa vụ thuộc về đời sống văn hóa xã hội, con người ta đạt được trong quá trình sản xuất và sinh sống của mình; Vị thế then chốt có thể do chính bản thân tạo ra nhưng cũng có thể do sự ưu tiên nào đó (như đẳng cấp, dòng dõi, thừa kế…) của xã hội; Vị thế không then chốt đó là những vị thế không đóng vai trò quyết định đặc điểm hay hành vi ứng xử xã hội của chủ thể.
Vai trò xã hội: đó là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế cụ thể. Vai trò là sự thể hiện một cách sinh động của vị thế trong những quan hệ nhất định. Một vị thế, có thể có nhiều vai trò khác nhau và vai trò sẽ thay đổi trong các quan hệ khác nhau cũng như vai trò sẽ thay đổi khi vị thế thay đổi.
Xã hội học về vai trò thường tập trung nghiên cứu các nội dung: Một vai trò xã hội có thể có nhiều mức độ biểu hiện hay sắc thái khác nhau; Vai trò không chỉ biểu hiện thành hành vi bên ngoài mà còn thể hiện những nội dung tinh thần bên trong; Bất kỳ vai trò nào cũng tồn tại trong sự gắn bó với các vai trò khác; Vai trò bao giờ cũng trong một khuôn khổ giới hạn nhất định, ngoài giới hạn đó nó không còn là vai trò nữa; Sự không phù hợp vai trò của chủ thể dẫn đến căng thẳng và xung đột xã hội; Vai trò và nhân cách gắn bó mật thiết và quy định nhau trong quan hệ xã hội; Mỗi chủ thể bao giờ cũng có nhiều vai trò khác nhau;...
Có 4 loại vai trò xã hội: Vai trò chỉ định là vai trò được qui định một cách mặc định, chủ thể dù muốn hay không cũng không có quyền từ chối; Vai trò lựa chọn là vai trò có được do nỗ lực của chủ thể, chủ thể dành được nó trong đời sống xã hội; Vai trò then chốt là vai trò quan trọng nhất trong nhóm các vai trò của chủ thể tại một thời điểm cụ thể nào đó; Vai trò tổng quát đó là sự phối hợp các vai trò khác nhau của chủ thể tạo nên một vai trò chung bao hàm trong đó ý nghĩa của nhiều vai trò khác.
Mạng lưới xã hội: Xã hội là tổng hợp của các mối quan hệ. Mạng lưới là phức hợp các mối quan hệ của cá nhân, nhóm, cộng đồng, các tổ chức. Tất cả các mối quan hệ của xã hội tạo nên mạng lưới xã hội. Không cá nhân, nhóm, cộng đồng, tổ chức hay đoàn thể nào có thể đứng ngoài mạng lưới xã hội. Trong đời sống xã hội, con người phải xử lý một phức hợp quan hệ xã hội tồn tại một cách chằng chịt với tư cách là mạng lưới xã hội, trong các mối quan hệ đó có những quan hệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với vị thế và vài trò của chủ thể buộc họ phải thực hiện; tuy nhiên, trong đó cũng có rất nhiều mối quan hệ không mang tính bắt buộc và đòi hỏi con người phải thực hiện.
Mạng lưới xã hội là một thành tố cơ bản cấu tạo nên cơ cấu xã hội. Chính thông qua các mối quan hệ phức hợp của mạng lưới xã hội mà cơ thể xã hội vận hành và biến đổi. Đặc biệt, qua mạng lưới xã hội, các thành viên xã hội có thể chia sẻ, trao đổi thông tin, kiến thức, nguồn lực để tăng cường thêm sức mạnh cho mình, tổ chức và cho cả xã hội. Chính tính hài hòa hay rối loạn của mạng lưới xã hội quyết định sự phát triển hay đình trệ của xã hội.
Thiết chế xã hội: Thiết chế xã hội là một tổ chức nhất định của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội được thực hiện bằng sự thống nhất hài hòa giữa các hành vi của con người và các chuẩn mực, quy phạm xã hội. Trong nghiên cứu cơ cấu xã hội, thiết chế xã hội được xem là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm hoạt động hướng tới một mục đích cơ bản của xã hội tại một thời điểm nhất định. Khi nói tới thiết chế xã hội nghĩa là nói tới một xã hội vận động và phát triển tuân theo kỷ cương và qui tắc.
Thiết chế xã hội có thể được xem xét theo cơ cấu bên trong và cơ cấu bên ngoài. Theo đó, với cơ cấu bên trong thiết chế biểu hiện là tổng thể con người, cơ quan được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và thực hiện các chức năng xã hội cụ thể; với cơ chế bên ngoài, thiết chế xã hội là tập hợp những tiêu chuẩn được định hướng theo mục tiêu về hành vi của con người nhất định trong một hoàn cảnh cụ thể.
Thiết chế xã hội có 2 chức năng chủ yếu là: Khuyến khích, điều chính, điều hòa hành vi của con người sao cho phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của xã hội; và, Chế định, kiểm soát, giám sát nhu cầu và hoạt động của các hành vi lệch chuẩn. Sự tồn tại, ổn định và phát triển của mọi xã hội có được là do có sự quản lý và kiểm soát xã hội, chính thiết chế xã hội thực hiện các chức năng quản lý và kiểm soát xã hội.
Thiết chế xã hội có những đặc điểm cơ bản là: Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm; Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc lẫn nhau; Những thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Có nhiều loại thiết chế xã hội khác nhau cùng tồn tại nhưng trong đó các thiết chế cơ bản là các thiết chế: chính trị, kinh tế, pháp luật, gia đình, giáo dục, y tế, khoa học, quân đội, đạo đức, dư luận xã hội…
Các phân hệ cơ cấu xã hội
Có nhiều cách phân hệ cơ cấu xã hội tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau của các ngành khoa học cũng như các mục đích nghiên cứu và quản lý xã hội. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung trao đổi các phân hệ cơ cấu cơ bản là: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp; cơ cấu xã hội - dân số; và, cơ cấu xã hội - dân tộc.
Cơ cấu xã hội - giai cấp: Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp, người ta không chỉ nghiên cứu giai cấp mà còn nghiên cứu cả các tầng lớp, các tập đoàn người khác nhau của xã hội. Trong nghiên cứu, người ta thường tập trung vào qui mô, kích thước, vị thế, vai trò và tương quan giữa các giai cấp, sự quan hệ và liên minh giữa các giai cấp, các tầng lớp, tập đoàn xã hội với nhau; những biến đổi trong cơ cấu lợi ích, xu hướng biến đổi vị thế, vai trò của các giai cấp, các tầng lớp, tập đoàn xã hội. Đồng thời cũng nghiên cứu các giá trị, chuẩn mực, xu hướng, tính cơ động xã hội, tính tích cực, sở hữu… của các gia cấp, tầng lớp, qua đó thấy được khuôn mẫu, văn hóa, lối sống, xu hướng và mục tiêu của các gia cấp, tầng lớp, tập đoàn khác nhau.
Bên cạnh đó, cũng có những cách tiếp cận nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp chỉ tập trung nghiên cứu những tập đoàn người tạo nên những giai cấp cơ bản có ý nghĩa quyết định sự vận động và biến đổi xã hội. Trong các nghiên cứu này người ta tập trung nghiên cứu thực trạng cơ cấu các gia cấp, qui mô giai cấp, vai trò, sứ mạng và tương lại của các giai cấp và qua đó chỉ ra giai cấp cơ bản quyết định sự biến đổi cơ cấu xã hội và phát triển xã hội.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp: Nó là hệ quả của sự phát triển sản xuất, sự phát triển ngành nghề và phân công lao động xã hội. Nghiên cứu cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là tập trung nhận diện thực trạng cơ cấu, tỷ trọng các ngành nghề, những đặc trưng, xu hướng và sự tác động qua lại lẫn nhau của các ngành nghề cũng như sự biến đổi, thay đổi ngành nghề của một xã hội nhất định. Trong xã hội hiện đại người ta thường tập trung nghiên cứu lực lượng lao động cũng như các ngành nghề cụ thể của lao động công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và một số ngành nghề đặc thù khác; đồng thời, người ta cũng nghiên cứu cơ cấu lao động theo giới tính, lứa tuổi, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ…
Ngoài ra, người ta cũng tiếp cận nghiên cứu cơ cấu xã hội - nghề nghiệp dưới góc độ phân tích lực lượng lao động theo lãnh thổ, vùng, miền, khu vực kinh tế xã hội; theo lao động trong các khu vực, thành phần kinh tế khác nhau; theo lao động trong khu vực kinh tế kết cấu hay kinh tế phi kết cấu; theo độ tuổi người lao động cũng như mức độ có việc làm và thất nghiệp của người lao động. Điều cơ bản là qua nghiên cứu thực trạng cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là để nhận diện sự biến đổi của nó và tác động của sự biến đổi ấy đến cơ cấu xã hội, đến đời sống xã hội và ngược lại. Qua đó có thể dự báo xu hướng vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội nghề nghiệp nói riêng và biến đổi cơ cấu xã hội nói chung.
Cơ cấu xã hội - dân số: Trong nhiều trường hợp người ta cũng gọi là cơ cấu xã hội - nhân khẩu. Ở đây tập trung nghiên cứu các tham số cơ bản như mức sinh, mức tử, biến động cơ cấu dân số cơ học, tự nhiên, di dân, đô thị hóa, tỷ lệ giới tính và cơ cấu độ tuổi, cơ cấu thế hệ. Bên cạnh đó, cũng chú ý nghiên cứu sức khoẻ sinh sản, đặc trưng văn hóa, tôn giáo, dân tộc, vùng miền của dân số.
Qua phân tích thực trạng cơ cấu xã hội - dân số ta có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của dân số của một xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định; cũng như mức độ ảnh hưởng, sự tác động của biến đổi cơ cấu xã hội - dân số đến sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội, an ninh, văn hóa, tài nguyên, môi trường… Cao hơn nữa đó là sự tác động đến tổng thể chất lượng cuộc sống của con người. Điều này có nghĩa là những tác động của sự biến đổi cơ cấu xã hội - dân số đến tổng thể đời sống xã hội và môi trường và đến lượt nó, nó lại tác động trở lại đối với cơ cấu dân số.
Cơ cấu xã hội - dân tộc: Đó trước hết là nghiên cứu thực trạng các dân tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc. Cụ thể, nó tập trung nghiên cứu quy mô, tỷ trọng, phân bố và sự biến đổi số lượng, chất lượng, đặc trưng, xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội nội bộ mỗi dân tộc cụ thể và sự tương quan giữa chúng với công đồng các dân tộc. Bao giờ nghiên cứu biến đổi cơ cấu - xã hội một dân tộc cụ thể cũng đặt nó trong tổng thể các dân tộc của một quốc gia, chính sự biến đổi cơ cấu - dân tộc của các dân tộc cụ thể quyết định sự biến đổi cơ cấu - dân tộc của quốc gia đó. Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội - dân tộc người ta cũng đặt nó trong mối quan hệ khăng khít với các phân hệ cơ cấu xã hội cơ quan khác của một xã hội nhất định, cũng như với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, dân số, tôn giáo…
Nghiên cứu cơ cấu xã hội - dân tộc không chỉ nhằm nhận diện đúng sự biến đổi của cơ cấu dân tộc trong một xã hội nhất định mà còn tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược, chủ trương để quy hoạch và phân bổ lại cơ cấu dân cư, lực lượng lao động, ngành nghề, việc làm, các nguồn tài nguyên phù hợp với chiến lược phát triển chung; đồng thời cũng phù hợp với những điều kiện tự nhiên - xã hội từng vùng miền, từng dân tộc cụ thể. Cũng từ đó có chiến lược bảo tồn văn hóa và bản sắc dân tộc, xây dựng tình đoàn kết anh em giữa các dân tộc, tích cực góp phần giữa vững an ninh quốc phòng, bảo vệ biên giới quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ.
PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu
Theo Tạp chí Cộng sản