Một số kiến nghị nhằm góp phần tăng cường đoàn kết các tôn giáo ở Việt Nam

(Mặt trận) - Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đồng bào các tôn giáo luôn đoàn kết, gắn bó và đóng góp tích cực vào sự nghiệp giải phóng đất nước trước đây, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: Một trong những động lực chủ yếu để phát triển đất nước là chính sách đại đoàn kết toàn dân, trong đó đặc biệt coi trọng đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.                                                                        

Chủ tịch Trần Thanh Mẫn thăm và làm việc tại Ban Trị sự GHPGVN TP. Cần Thơ. Ảnh: Quốc Trung - Tuấn Quang

Theo Từ điển tiếng Việt, đoàn kết là đồng lòng, kết hợp thành khối, thành nhóm chặt chẽ. Đoàn kết tôn giáo là các tôn giáo cùng kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Ở Việt Nam, vấn đề tôn giáo và dân tộc luôn có mối quan hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đồng bào tôn giáo cũng là công dân của đất nước, dân tộc. Nhiều đồng bào các dân tộc đã và đang tin, theo một tôn giáo; vì thế đoàn kết tôn giáo chính là thành tố quan trọng tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, trong những năm vừa qua, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo đã luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, hòa hợp, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, trong đó Người đặc biệt quan tâm đến việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện đoàn kết giữa các tôn giáo ở nước ta. Người khẳng định, đoàn kết toàn dân, đặc biệt là đoàn kết các tôn giáo với nhau là vấn đề sống còn, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự tồn vong của dân tộc. Sau khi nước nhà độc lập, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Người đã tuyên bố: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để dễ bề thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”(1) và khẳng định: “Phải đoàn kết chặt chẽ không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo. Đoàn kết tức là lực lượng; chia rẽ tức là yếu hèn(2). Đây cũng chính là kim chỉ nam cho sự thành công của cách mạng nước ta. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp được các tôn giáo trong khối đoàn kết toàn dân tộc tham gia kháng chiến và kiến quốc thắng lợi. Người đã nhìn ra bản chất của tôn giáo và đã kêu gọi đoàn kết tôn giáo, vì lợi ích chung của cả dân tộc và cũng vì lợi ích của chính các tôn giáo; việc giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm mục đích cuối cùng là vì nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Đây chính là cơ sở thực hiện đoàn kết đồng bào các tôn giáo với nhau và giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm tháng đầu tiên khi dân tộc mới giành được độc lập, Đảng và Bác Hồ luôn dành thời gian chăm lo cho công tác tôn giáo theo nguyên tắc “không chạm đến vấn đề đức tin”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện thắng lợi việc đoàn kết các tôn giáo một cách toàn diện và sáng tạo trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân. Người đã nhấn mạnh: “Dân tộc có giải phóng thì tôn giáo mới giải phóng được. Lúc này chỉ có quốc gia và không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người đều là công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc(3). Đại đoàn kết là điểm cốt lõi nhất trong hệ thống quan điểm tôn giáo của Hồ Chí Minh. Với phương pháp đấu tranh mềm dẻo, đi sâu vào lòng người, luôn đồng cảm với từng nỗi khổ, niềm vui của đồng bào các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có cách xử thế tinh tế, phù hợp với đạo lý, giúp cho các tín đồ tin tưởng vào Chính phủ, tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo còn bao hàm cả sự phê phán những hành vi lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng, xâm phạm đến lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Người đề nghị đồng bào luôn nêu cao cảnh giác, phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại âm mưu, hành động của kẻ thù lợi dụng tôn giáo hòng chia rẽ đoàn kết giữa các tôn giáo, tôn giáo với dân tộc.

Kế thừa, phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết tôn giáo, những năm qua, Ðảng và Nhà nước luôn đặc biệt coi trọng vấn đề dân tộc, tôn giáo và coi đó là một trong những nội dung quan trọng trong việc hoạch định đường lối xây dựng và kiến thiết, phát triển đất nước. Đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành tư tưởng xuyên suốt, một chiến lược cách mạng quan trọng của Đảng ta. Ðảng ta đã khẳng định: Ðồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm trên thực tế quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân, quyền sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật. Xác định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo xác định: "Tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"(4). Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng…(5). Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc để tập hợp rộng rãi tất cả đồng bào và chức sắc tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc.

Trên cơ sở cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng về đoàn kết tôn giáo, Điều 24, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3.Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Như vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu nhất quán, đó là đoàn kết đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.

Mặc dù các tôn giáo ở Việt Nam có nguồn gốc và đặc trưng khác nhau, nhưng không vì thế mà xung đột, phá hoại lẫn nhau mà luôn có sự gắn kết, dung hợp và giao lưu giữa các tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là những yếu tố để mỗi người dân dễ hòa hợp với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, tín đồ của tôn giáo này sống đan xen với tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những người không theo tôn giáo, họ sống gắn bó với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng họ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước hiện nay, các tôn giáo ở nước ta đã kết thành một khối trong cộng đồng các dân tộc, hết lòng đóng góp sức người, sức của giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và kiến thiết đất nước. Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Những thành tựu đó bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó có đóng góp quan trọng của đồng bào các tôn giáo. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn giáo, cùng phấn đấu cho mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng phát triển; nhiều cơ sở thờ tự tôn giáo được xây mới khang trang; các chức sắc, tín đồ được tạo điều kiện sinh hoạt, học tập, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật; đồng bào các tôn giáo ngày càng yên tâm, tin tưởng, hăng hái thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, nhất là các hoạt động xã hội, từ thiện, góp phần cùng chính quyền các cấp phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư.

Từ việc nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của công tác tôn giáo trong thời kì đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã xác định: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo; các cơ quan, ban, ngành chức năng vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là vừa chăm lo đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, vừa đưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật; góp phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo. Đẩy mạnh tuyên truyền khai thác các giá trị nhân bản, đạo đức trong các tôn giáo, gắn “việc đạo với việc đời”, “tôn giáo với dân tộc”; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với đất nước. Quan tâm, giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân trên cơ sở pháp luật. Tăng cường đối thoại dân chủ trực tiếp với nhân dân, hòa giải mâu thuẫn tôn giáo hay những vấn đề phức tạp liên quan đến tôn giáo như tranh chấp đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự.v.v.. trên tinh thần hiệp thương dân chủ, hòa giải cơ sở nhằm tạo ra sự đồng thuận giữa Đảng, chính quyền với đồng bào các tôn giáo. Việc thực hiện đại đoàn kết các tôn giáo trên cơ sở phát huy hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tương xứng với nhiệm vụ lịch sử đặt ra. Bên cạnh đó, cần chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo “vừa hồng, vừa chuyên”, có phẩm chất đạo đức trong sáng, gương mẫu; tích cực, tận tuỵ đối với nhiệm vụ được giao.

Xác định đa số đồng bào theo tôn giáo ở nước ta là người lao động nghèo, đời sống còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp so với mặt bằng chung của toàn xã hội; trong những năm qua, cả hệ thống chính trị nước ta đã quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ các tôn giáo bằng các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng và triển khai các chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa trong đồng bào tín đồ các tôn giáo kết hợp với các chính sách hỗ đặc biệt cho đồng bào các tôn giáo có hoàn cảnh khó khăn, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào các tôn giáo. Biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, đặc biệt là đồng bào tín đồ các tôn giáo trên tinh thần “cầu đồng, tồn dị”, loại bỏ những khác biệt về chính kiến, tìm kiếm những điểm tương đồng trong nhân dân. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo... Bên cạnh các nhiệm vụ trọng tâm trên, Đảng, Nhà nước ta đã chỉ đạo cả hệ thống chính trị chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Tuyên truyền làm cho nhân dân hiểu, phân biệt vấn đề tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật hoặc gây mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, dòng tộc, bản làng cũng như việc làm ảnh hưởng đến phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là cuộc sống bình yên của nhân dân và các tín đồ, chức sắc tôn giáo.

Nhằm làm tốt công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo trong cả nước, hàng năm, các cấp, các ngành chức năng từ Trung ương đến các địa phương đã thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng, phương châm, phương pháp về xây dựng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo; đồng thời, tổng kết và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đoàn kết tôn giáo; kết hợp chặt chẽ công tác tôn giáo với việc tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh trên các địa bàn; động viên, khuyến khích các chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo “sống tốt đời, đẹp đạo”, cống hiến tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho đồng bào các tôn giáo thấy rõ sự ưu việt của chế độ, sự đúng đắn của các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nói chung, về tôn giáo, công tác tôn giáo nói riêng; từ đó, nâng cao nhận thức của các chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo về những vấn đề xã hội, về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để hòng gây mất đoàn kết nội bộ, gây mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội của đất nước. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc nói chung, công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nói riêng. Xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh, tạo điều kiện về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỷ, chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần xem xét bố trí đúng người, đúng việc, đúng vị trí nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu quả trong công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo, dân tộc trong cộng đồng dân cư.

Đại đoàn kết là truyền thống quý báu, một sức mạnh vĩ đại đã được thử thách, kiểm chứng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong đó, đoàn kết tôn giáo là bài học có ý nghĩa chiến lược, vô cùng quan trọng mà ông cha ta đã tổng kết trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó cũng là quan điểm, chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thời đại mới nhằm khơi dậy và phát huy những giá trị tích cực của mỗi tôn giáo nói riêng và sức mạnh khối đại đoàn kết các tôn giáo nói chung trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, góp phần đưa đất nước ta phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t.4, tr.9, 490.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo, Nxb. CTQG, H. 2004, tr.62.

3. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1993, t.3, tr.15.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr.48.