Nhằm góp phần đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản đã tổ chức Tọa đàm khoa học với chủ đề: “Tích tụ, tập trung ruộng đất ở Việt Nam trong điều kiện mới: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Các tham luận tại Tọa đàm đã được chọn lọc, biên tập và giới thiệu trên các số 896 (6-2017), 897 (7-2017) và 898 (8-2017) của Tạp chí Cộng sản. Chúng tôi xin tổng hợp lại nội dung của các tham luận và ý kiến tại tọa đàm này.
Việc tích tụ ruộng đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ giới hóa, hướng tới mô hình sản xuất hàng hóa - Nguồn: hanoimoi.com.vn
Chung quanh khái niệm tích tụ, tập trung ruộng đất
Tích tụ ruộng đất
- Tích tụ ruộng đất là sự tăng quy mô ruộng đất của đơn vị sản xuất (hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp...) theo thời gian do khai hoang, thừa kế, mua, thuê, nhận cầm cố,... để tiến hành sản xuất nông nghiệp.
- Tích tụ là quá trình tích tụ tư bản với đất đai là tư liệu sản xuất chính để mở rộng sản xuất và phát huy được lợi thế kinh tế theo quy mô. Hoạt động tích tụ ruộng đất được thực hiện trên thị trường đất đai. Để có đất đai đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh, nhà đầu tư có thể mua quyền sở hữu hay thuê quyền sử dụng đất (QSDĐ) theo nguyên tắc “thuận mua, vừa bán” hoặc thuê lại đất và trả địa tô cho người cho thuê đất.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau liên quan đến tích tụ ruộng đất, nhưng tất cả đều có những điểm chung là: 1- Tích tụ ruộng đất làm tăng quy mô ruộng đất của một chủ sở hữu; 2- Tích tụ ruộng đất sẽ khắc phục được tình trạng manh mún đất đai khi tăng quy mô diện tích canh tác của hộ gia đình; 3- Hoạt động tích tụ không thể tách rời với thị trường đất đai mà cụ thể bao gồm thị trường chuyển nhượng QSDĐ và thị trường thuê đất; 4- Tích tụ và tập trung ruộng đất đều nhằm mục đích giảm manh mún, nhưng tích tụ ruộng đất gắn trực tiếp đến sự phân tầng về diện tích đất và mức sống ở khu vực nông thôn.
Tích tụ ruộng đất có thể coi là một dạng tích tụ tư bản dưới hình thức hiện vật trong nông nghiệp. Tuy nhiên, đặc trưng của tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp khác với tích tụ tư bản trong công nghiệp. Do ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được và có giới hạn, và do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố sinh thái, tự nhiên, thời tiết, khí hậu... nên lợi thế kinh tế theo quy mô có phần hạn chế. Trong khi tích tụ tư bản trong công nghiệp gần như là không giới hạn, hình thành nên những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, tận dụng được lợi thế kinh tế theo quy mô. Từ đó có thể thấy, cần tính toán quy mô tích tụ ruộng đất phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Trên thực tế, các mô hình nông nghiệp công nghệ cao không đòi hỏi quy mô ruộng đất quá lớn. Một điểm nữa cũng cần quan tâm, đó là tích tụ ruộng đất đồng nghĩa với việc một bộ phận nông dân sẽ mất QSDĐ, đồng nghĩa với việc họ có nguy cơ bị bần cùng hóa rất cao.
Hình thức tích tụ ruộng đất liên quan đến các mô hình giúp tăng diện tích ruộng đất của các hộ gia đình hoặc tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp từ các cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc qua các mô hình góp vốn bằng quyền sử dụng đất có chuyển QSDĐ giữa nông dân với doanh nghiệp.
Tập trung ruộng đất
- Tập trung ruộng đất có thể được hiểu là “gom” nhiều mảnh đất hiện có thành mảnh đất, khu đất, cánh đồng có quy mô lớn, liền vùng, liền thửa, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ, bằng con đường thuê mướn hoặc liên kết sản xuất, kinh doanh, góp vốn QSDĐ vào doanh nghiệp...
- Theo một cách hiểu khác, tập trung ruộng đất là một sự điều chỉnh và sắp xếp lại các thửa ruộng, thường được áp dụng để hình thành những vùng đất rộng lớn và hợp lý hơn. Tập trung ruộng đất bên cạnh tạo thuận lợi cho thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp còn có thể được sử dụng để cải thiện kết cấu hạ tầng nông thôn và thực hiện các chính sách bảo đảm tính bền vững của môi trường và nông nghiệp.
Từ các cách hiểu trên, có thể đưa ra nhận xét: 1- Tập trung ruộng đất là sự mở rộng quy mô diện tích ruộng đất do hợp nhất nhiều thửa đất lại, chủ sở hữu không thay đổi; 2- Tập trung ruộng đất cần có sự hỗ trợ của tín dụng; 3- Tập trung ruộng đất không chỉ đơn giản là phân bổ lại các lô đất để loại bỏ những ảnh hưởng của sự phân mảnh mà còn gắn liền với cải cách kinh tế và xã hội rộng lớn hơn.
Hình thức tập trung ruộng đất liên quan đến các mô hình giúp tăng diện tích mảnh ruộng hoặc tạo ra các quy trình canh tác đồng nhất mà không làm thay đổi QSDĐ nông nghiệp của cá nhân, tổ chức kinh tế.
Như vậy, tích tụ và tập trung ruộng đất khác nhau từ cách thức tiến hành, quyền tài sản (ở đây là QSDĐ) và một số tác động xã hội như cách thức duy trì thu nhập, việc làm của người nông dân sau tích tụ và tập trung ruộng đất cũng khác. Tuy nhiên, về mặt kinh tế, mục tiêu cuối cùng vẫn là tạo ra một diện tích đất đai quy mô lớn để có thể ứng dụng công nghệ, máy móc vào sản xuất nông nghiệp để đạt được hiệu quả cao hơn.
Về tính tất yếu của tích tụ, tập trung ruộng đất
Ở nước ta hiện nay vẫn có hai luồng ý kiến trái ngược nhau: Những người có khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp hay các doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp thì hối thúc Nhà nước tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất. Nhưng những người e ngại quá trình này sẽ làm nhiều người nông dân mất kế sinh nhai lại không tán thành. Tuy nhiên, các ý kiến tại Tọa đàm đều cho rằng đây là một quá trình tất yếu, bởi những lý dó sau:
- Sau hơn 30 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch mạnh mẽ, thoát ra khỏi tình trạng một nền kinh tế nông nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 38% (năm 1986) xuống còn 16,32% (năm 2016). Trong khoảng thời gian đó, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp cũng giảm từ 72,9% xuống còn 41,9% tổng lao động xã hội. Ngay ở nông thôn, chỉ khoảng 49% số hộ có nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp (năm 2016). Do quy mô sản xuất nông nghiệp quá nhỏ, đóng góp của nông nghiệp trong tổng thu nhập của gia đình ngày càng giảm nên vai trò là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của đất đã giảm sút đáng kể.
- Để phát triển một nền nông nghiệp sản xuất lớn, công nghệ cao, cần phải thực hiện tích tụ, tập trung ruộng đất ở quy mô phù hợp. Ruộng đất vẫn còn rất manh mún (cả nước có hơn 10 triệu hộ nông dân với khoảng 70 triệu mảnh ruộng). Với quy mô như vậy, sản xuất nông nghiệp thời gian qua phổ biến dựa trên sản xuất nông hộ quy mô nhỏ, thiếu liên kết đã dẫn đến nhiều hệ lụy: khó khăn trong thực hiện cơ giới hóa, hiện đại hóa trong làm đất, chăm sóc, thu hoạch, chế biến; hạn chế khả năng tiếp cận vốn, ứng dụng khoa học và công nghệ, quản trị, ứng dụng quy trình công nghệ tiên tiến, quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Dưới tác động và sức hút tự nhiên của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và đô thị hóa. Tình trạng nông dân “bỏ ruộng” đã xuất hiện từ khoảng năm 2005, nhưng nay đã trở thành một hiện tượng lan rộng ở nhiều tỉnh, nhất là ở các tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Bắc Trung Bộ. Đây là hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, phản ánh xu hướng tích cực của quá trình rút bớt lao động ra khỏi nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện để tích tụ, tập trung ruộng đất cho phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.
- Ngoài ra, tích tụ ruộng đất được xem là tiền đề phát triển kinh tế hộ gia đình trong quá độ chuyển từ sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Quá trình này vận động theo cơ chế thị trường, thông qua các hình thức giao dịch dân sự (chuyển nhượng QSDĐ, thừa kế, tặng, cho QSDĐ). Một bộ phận hộ gia đình nông dân có kinh nghiệm sản xuất, sử dụng đất hiệu quả, có thu nhập, có nguồn vốn để nhận chuyển QSDĐ, mở rộng quy mô sử dụng đất (tích tụ ruộng đất); tuy nhiên đa số hộ gia đình nông dân thiếu vốn để thực hiện tích tụ ruộng đất, muốn sử dụng đất hiệu quả, họ phải chọn hình thức khác (thông qua cho thuê hoặc góp vốn bằng QSDĐ).
Còn tập trung ruộng đất luôn được coi là một công cụ hoặc điểm xuất phát cho phát triển nông thôn. Khái niệm ban đầu về phát triển nông thôn hầu như đồng nhất với phát triển nông nghiệp do vai trò chủ đạo của nông nghiệp ở nông thôn vào thời kỳ đầu phát triển. Sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung cần đầu tư khoa học - công nghệ (giống cây con; phân bón; bảo vệ thực vật, thú y; kỹ thuật canh tác, chăn nuôi; máy móc thiết bị, chế biến, bảo quản nông sản; tiêu thụ hàng hóa). Sản xuất riêng lẻ của hộ gia đình cá nhân không đáp ứng được yêu cầu này nên tất yếu có nhu cầu hợp tác sản xuất, kinh doanh dưới các hình thức thích hợp, như hợp tác sản xuất, kinh doanh (từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm); góp vốn với các doanh nghiệp nông nghiệp,...
Hiện nay, khái niệm phát triển nông thôn đã được mở rộng hơn, bao gồm nhận thức về môi trường ngày càng tăng và một loạt các ứng dụng phi nông nghiệp. Tập trung đất đai sẽ chuyển từ trọng tâm vào việc cơ cấu lại nông nghiệp sang sử dụng không gian nông thôn hiệu quả hơn với việc quy hoạch kết cấu hạ tầng, cụm dân cư và quy hoạch sản xuất nông nghiệp nhằm cân bằng lợi ích của nông nghiệp, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và nâng cao chất lượng đời sống của nông dân và cải thiện diện mạo nông thôn.
Tóm lại, ruộng đất phải dần được tích tụ, tập trung nhiều hơn vào một số hộ nông dân để tạo ra sinh lợi từ đất cao nhất, làm ra nhiều hàng hóa nông sản nhất. Nhiều người nông dân sẽ phải có nghề mới và không còn là nông dân. Quá trình này diễn ra khó khăn, phức tạp đối với một nước như nước ta vốn đại bộ phận dân cư còn sinh sống nhờ nghề nông, cần phải có đất canh tác. Nhưng đó là quy luật vận động khách quan của xã hội vẫn không thể ngăn cản được.
Thực trạng quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất qua các hình thức chủ yếu thời gian qua
- “Dồn điền, đổi thửa”. Trước đây, các hộ thường có 5 - 7 mảnh, thậm chí có nơi tới 10 - 12 mảnh. Thực trạng này làm ảnh hưởng xấu tới sản xuất. Với sự hỗ trợ, giúp đỡ của hợp tác xã, chính quyền thôn, xã, các hộ đã tự nguyện hoán đổi các thửa ruộng đất với nhau (có thể trả tiền chênh lệch do vị trí hoặc độ màu mỡ) để giảm số thửa và tăng diện tích các thửa của hộ. Hiện nay, các hộ có trung bình 2 - 3 thửa.
“Dồn điền, đổi thửa” tập trung chủ yếu vào 2 giai đoạn 2008 - 2010 và 2012 - 2014 và chủ yếu đối với đất lúa tại đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ. Số liệu khảo sát cho thấy, số thửa bình quân của một hộ nông nghiệp đã giảm từ 4,72 thửa năm 2004 xuống còn 2,38 thửa năm 2014. Tuy nhiên, hình thức này dường như đã đạt tới ngưỡng.
- Góp đất vào hợp tác xã nông nghiệp. Ở nhiều địa phương, các hộ gia đình tự nguyện liên kết thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Tham gia hợp tác xã, nhưng các hộ vẫn tự chủ canh tác trên ruộng đất của mình. Hợp tác xã làm dịch vụ cho hộ các khâu làm đất, tưới tiêu nước, cấy, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch; cung cấp cho hộ giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật bảo đảm chất lượng, giá thành thấp.
Tuy nhiên, số hợp tác xã thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để đầu tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản còn hạn chế. Hết năm 2015, cả nước có 10.902 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng (33,5%), Bắc Trung Bộ (19,7%), Đông Bắc Bộ (16,9%), đồng bằng sông Cửu Long (11,2%). Mặc dù hình thức này đang được ủng hộ bởi nhiều chủ trương, chính sách cùng với việc ban hành Luật Hợp tác xã năm 2012 gần đây, nhưng khả năng phát triển của các hợp tác xã còn hạn chế, đặc biệt trong năng lực quản trị và tiếp cận vốn tín dụng.
- Các hộ mua, nhận chuyển nhượng QSDĐ của các hộ khác để mở rộng sản xuất, trở thành trang trại hoặc các hộ quy mô lớn. Hình thức này diễn ra nhiều ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việc mua lại QSDĐ giúp hộ yên tâm đầu tư phát triển lâu dài.
Tuy nhiên, hình thức này gặp một số trở ngại. Số hộ muốn bán QSDĐ không nhiều (nhất là các tỉnh phía Bắc); họ bán đất chỉ khi hoàn cảnh bắt buộc, bởi tâm lý lo ngại công việc không ổn định, không bảo đảm cuộc sống khi chuyển nghề,... Đất đai còn là tài sản mà các hộ muốn để lại cho con cháu. Việc mua, bán QSDĐ nhiều trường hợp chỉ được xác nhận bằng giấy viết tay, cơ sở pháp lý không vững chắc. Một trở ngại nữa là một số hộ có đất vượt quá hạn mức được nhận chuyển nhượng QSDĐ, phải nhờ nhiều người khác đứng tên một phần diện tích đất của mình.
- Hình thức hộ thuê đất của các hộ khác để mở rộng sản xuất. Hình thức này diễn ra ngày càng phổ biến. Cách làm này cũng giúp tăng quy mô, đưa ruộng đất đến tay người sử dụng hiệu quả nhất, và qua đó giúp tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Người nông dân cho thuê ruộng vẫn giữ được QSDĐ của mình mà đất nông nghiệp lại không bị bỏ hoang, tránh lãng phí tài nguyên của xã hội. Thêm vào đó chi phí thuê đất nông nghiệp rẻ hơn rất nhiều so với chi phi mua đất nông nghiệp. Đây là một hình thức mang đến cả hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội đồng thời khả năng áp dụng và nhân rộng lại cao vì khung pháp lý cho hoạt động này cũng đã tương đối hoàn thiện.
Tuy nhiên, năm 2014 tỷ lệ hộ cho thuê đất nông nghiệp rất thấp, chỉ ở mức 10,5% và tỷ lệ đất nông nghiệp cho thuê dưới mức 5%; thậm chí việc cho thuê đất phần lớn chỉ giới hạn trong gia đình, họ hàng. Khó khăn lớn nhất là người đi thuê đất phải đàm phán với nhiều hộ nông nghiệp để có quy mô đủ lớn do đặc thù đất đai nước ta khá manh mún và thường gặp phải rủi ro vỡ hợp đồng khi người cho thuê đòi lại đất. Về phía người cho thuê đất, cơ hội kiếm việc làm phi nông nghiệp vẫn còn hạn chế nên nguồn cung cho thuê bị giới hạn. Về phía cầu đi thuê đất, người nông dân với đặc điểm nguồn lực về vốn hạn chế nên chi phí để thuê đất quy mô lớn vẫn còn tương đối cao trong khi chưa có cơ chế để họ có thể thế chấp đất thuê, tạo nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh.
- Doanh nghiệp liên kết sản xuất với hộ gia đình. Trong những năm gần đây, hình thức này phát triển khá nhiều. Các hộ gia đình vẫn canh tác trên diện tích đất của mình theo sự hướng dẫn kỹ thuật của doanh nghiệp; doanh nghiệp bỏ vốn cung ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và mua lại sản phẩm do hộ sản xuất ra. Các hộ canh tác theo quy trình kỹ thuật tiên tiến, năng suất cao hơn và không phải lo tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp trở ngại, đó là đất của các hộ tham gia liên kết với doanh nghiệp nằm xen kẽ với đất của các hộ không tham gia liên kết, ảnh hưởng đến việc xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, cải tạo đồng ruộng cũng như các điều kiện bảo đảm chất lượng sản phẩm; ngoài ra, còn có hiện tượng một số hộ bán sản phẩm ra ngoài khi có giá cao hơn thỏa thuận ban đầu với doanh nghiệp.
- Hình thức doanh nghiệp mua, nhận chuyển nhượng QSDĐ của hộ để mở rộng sản xuất. Hình thức này chưa được triển khai nhiều bởi doanh nghiệp thường không chủ động mua đất nông nghiệp của hộ để sản xuất quy mô lớn vì giá mua đất nông nghiệp cao nên khó tạo ra lợi nhuận đủ hấp dẫn so với số vốn bỏ ra ban đầu để mua đất nếu chỉ sản xuất nông nghiệp. Không chỉ về vấn đề giá mà còn về vấn đề thỏa thuận giá với mỗi người dân để hình thành quy mô đất đủ lớn quá phức tạp và tốn thời gian nên hình thức này vẫn chưa phổ biến. Về phía người dân, vấn đề lớn nhất là phải tạo được việc làm và sinh kế mới cho hàng loạt hộ chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp cho doanh nghiệp trên quy mô lớn.
- Hình thức doanh nghiệp thuê đất của hộ nông dân. Doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh và sản xuất hàng hóa nông nghiệp quy mô lớn mà chưa có vùng nguyên liệu ổn định sẽ đứng ra ký hợp đồng thuê đất với các hộ nông dân không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp để tập trung thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung. Doanh nghiệp với tiềm lực của mình có thể áp dụng khoa học - công nghệ, cơ giới hóa, chủ động được vùng nguyên liệu để đầu tư đồng bộ bảo đảm yêu cầu về chất lượng của hàng hóa nông nghiệp. Tương tự như hình thức nông dân thuê đất của nông dân, chi phí của hình thức này cũng tương đối thấp. Thủ tục để thuê đất của người dân tương đối đơn giản, người nông dân vừa giữ được QSDĐ của mình, vừa có thêm thu nhập. Hiện nay, ở một số địa phương nhiều doanh nghiệp đã thuê hàng nghìn héc-ta đất của hộ gia đình, đất công ích của thôn, xã để sản xuất nông nghiệp, như Vincom, TH* True Milk,...
Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp thuê đất nông nghiệp còn thấp hơn cả mức độ hộ nông dân thuê đất nông nghiệp của hộ nông dân. Một phần là do tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp của Việt Nam tương đối thấp (chiếm tỷ lệ chưa tới 1% so với tổng số doanh nghiệp trên cả nước). Doanh nghiệp đi thuê đất phải làm thủ tục hợp đồng với quá nhiều đối tượng với những điều kiện và yêu cầu khác nhau để đạt được một diện tích đủ lớn, gây tốn kém và rủi ro cho doanh nghiệp. Chi phí đầu tư tương đối lớn mà doanh nghiệp lại không thể thế chấp được đất thuê. Đồng thời, chưa có khung pháp lý và chính sách đủ mạnh để phát triển các tổ chức trung gian nào, ví dụ như một doanh nghiệp công ích của Nhà nước đứng ra thuê đất của nông dân rồi cho doanh nghiệp khác thuê lại.
- Hình thức hộ gia đình góp đất, chuyển giá trị đất thành cổ phần của doanh nghiệp. Theo hình thức này, người nông dân vừa giữ được QSDĐ của mình, vừa được tăng thêm thu nhập từ tiền cổ tức hằng năm theo cổ phần quy đổi về giá trị QSDĐ của người nông dân khi doanh nghiệp có lãi. Nếu người nông dân có nhu cầu làm việc sẽ được doanh nghiệp ưu tiên nhận vào làm công nhân. Về phía mình, doanh nghiệp sẽ có quỹ đất đủ lớn để đầu tư bài bản, khoa học - công nghệ và cơ giới hóa nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm chi phí. Trên địa bàn cả nước mới chỉ có một vài mô hình đang thực hiện thí điểm về việc nông dân góp vốn bằng giá trị QSDĐ, ví dụ như mô hình góp đất trồng cao-su ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu; mô hình góp đất của nông dân xã Vân Sơn thuộc huyện Triệu Sơn (tỉnh Thanh Hóa).
Tuy nhiên, hình thức này hiện chưa đạt được hiệu quả cao do chưa rõ ràng trong việc góp vốn bằng QSDĐ hay giá trị QSDĐ. Người nông dân lo ngại việc sẽ mất QSDĐ của mình khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ (Hiện nay, một số công ty cao-su có sự tham gia góp đất của nhiều hộ gia đình ở các tỉnh Tây Bắc chưa thành công, ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ góp đất vào công ty như những cổ đông). Doanh nghiệp không thể thế chấp QSDĐ cũng như vốn hóa giá trị QSDĐ để vay vốn đầu tư sản xuất. Đồng thời, doanh nghiệp cũng vấp phải rủi ro trong quá trình quản lý và hoạt động của công ty do có rất nhiều các cổ đông là nông dân. Khả năng áp dụng của hình thức này hiện nay rất thấp do khó có một khung pháp lý đồng bộ cho các hợp đồng góp vốn của doanh nghiệp và sự phối hợp của nông dân và doanh nghiệp trong khâu quản lý doanh nghiệp rất hạn chế.
Một số vấn đề đặt ra
Mặc dù có nhiều nỗ lực của các cấp chính quyền, từ Trung ương đến địa phương, nhưng quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất thời gian qua diễn ra rất chậm là trở ngại lớn cho phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất còn đặt ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tích tụ, tập trung ruộng đất làm mất sinh kế của một bộ phận người dân.
Tích tụ, tập trung ruộng đất có thể coi là quá trình mà đất đai tập trung vào tay người này thì ra khỏi tay người khác. Dù với bất kỳ lý do nào (tự nguyện hay ép buộc, hợp lý hay bất hợp lý, chính đáng hay không chính đáng) thì tích tụ, tập trung ruộng đất đang là nguyên nhân gây mất đất của một bộ phận người dân, điều này đồng nghĩa với việc họ bị mất sinh kế truyền thống. Sinh kế bao gồm các khả năng, các tài sản và các hoạt động cần thiết để kiếm sống: QSDĐ là tài sản rất quan trọng đối với sinh kế ở nông thôn, đặc biệt đối với người dân chỉ kiếm sống nhờ sử dụng đất đai. Việc mất đi sinh kế dựa vào đất đai ảnh hưởng không chỉ đến thu nhập mà còn đến tâm lý, tinh thần của người dân và có thể gây ra những vấn đề xã hội khác...
Thứ hai, sự bất bình đẳng ở nông thôn cả về thu nhập và đất đai.
Tích tụ ruộng đất dẫn đến phân hóa trong nông thôn vì xu hướng đất tập trung vào một số người dẫn đến sự mất cân bằng về thu nhập. Người có nhiều đất thì làm ăn vẫn dễ hơn và có thu nhập cũng cao hơn so với người có ít đất... Điều này đã làm xuất hiện tâm lý tiêu cực, tự ti trong một bộ phận người dân nông thôn, từ đó dẫn đến hậu quả về mặt xã hội.
Thứ ba, các vấn đề xã hội đặt ra trong quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất.
Khi quy mô đất đai lớn hơn thì một bộ phận lao động sẽ phải rút khỏi khu vực nông nghiệp. Vấn đề đặt ra trên thực tế là: Họ sẽ đi đâu, làm gì? Và các vấn đề xã hội nảy sinh ra sao? Đó là vấn đề đang cần giải quyết song song với việc tích tụ đất đai cho sản xuất lớn. Những tác động tiêu cực của quá trình này cho thấy: tích tụ, tập trung ruộng đất có thể trở thành vấn đề chính trị - xã hội và việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả đang là thách thức lớn.
Thứ tư, tích tụ ruộng đất chưa gắn với phân công lại lao động trong nông thôn, nông nghiệp một cách chặt chẽ: các trang trại có quy mô dưới 3ha hầu như sử dụng lao động gia đình là chính, kết hợp với thuê máy móc làm đất, gặt đập hoặc lao động gia đình là chính, kết hợp với thuê lao động theo thời vụ; một số ít trang trại quy mô lớn hàng chục héc-ta kết hợp trang bị máy móc (máy cày, máy gặt đập liên hợp) với thuê lao động thường xuyên (khoảng 10 người) và lao động mùa vụ.
Nguyên nhân cản trở quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất
Nguyên nhân từ việc tạo động lực thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất
- Đất hẹp người đông, dân số nông nghiệp tăng nhanh, khả năng thu hút lao động của công nghiệp - đô thị còn yếu.
- Chi phí cơ hội của đất tương đối thấp. Nông hộ nhỏ chưa có đủ điều kiện về tài chính, kỹ năng sản xuất và quản lý, thông tin và quan hệ xã hội để tập trung ruộng đất. Trong khi khu vực nông nghiệp chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân vì lãi suất từ sản xuất nông nghiệp thấp, không ổn định.
- Chưa có quy hoạch nghiêm túc cho chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
- Kinh tế hợp tác chưa phát triển. Mặc dù hình thức này đang được ủng hộ bởi nhiều chủ trương, chính sách cùng với việc ban hành Luật Hợp tác xã năm 2012, nhưng khả năng phát triển của các HTX còn hạn chế, đặc biệt trong năng lực quản trị và tiếp cận vốn tín dụng.
- Chưa có chính sách hiệu quả thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp có đủ tiềm lực về vốn, công nghệ có nhu cầu sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng đất lúa, đất rừng phòng hộ. Việc tiếp cận đất nông nghiệp của các doanh nghiệp còn gặp khó khăn do công tác công bố, công khai quỹ đất dành cho phát triển nông nghiệp trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa rõ ràng. Điều kiện để doanh nghiệp được giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án quy mô lớn trong nông nghiệp còn rất khó khăn và phức tạp, chưa có quy định trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng QSDĐ nông nghiệp của nông dân nên việc triển khai các dự án đầu tư của doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp quy mô lớn còn gặp khó khăn.
Nguyên nhân liên quan đến chính sách đất đai
- Hạn chế về hạn điền và thời gian sử dụng. Đối với hộ gia đình, cá nhân còn có những vướng mắc về hạn mức nhận chuyển QSDĐ trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản không quá 10 lần hạn mức giao đất (Điều 130 Luật Đất đai năm 2013). Ở khu vực Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long không quá 30ha và không quá 20ha cho mỗi loại đất đối với các hộ gia đình, cá nhân các tỉnh còn lại. Hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng QSDĐ lúa, nếu không trực tiếp sản xuất nông nghiệp hoặc đất nông nghiệp trong khu rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái rừng đặc dụng nếu không sinh sống trong khu rừng (khoản 3, 4 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013). Việc chuyển đổi QSDĐ lúa chỉ được thực hiện trong cùng một xã, phường, thị trấn.
- Việc chuyển đổi sử dụng đất trồng lúa sang đất nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn. Chế tài xử lý ruộng đất bỏ hoang hóa chưa đủ mạnh, nên có xu hướng giữ ruộng làm vật “bảo hiểm”, sử dụng kém hiệu quả, ngừng canh tác.
- Giá trị chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp khá cao, lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp thấp, nhiều rủi ro, cơ chế chính sách hỗ trợ chuyển nhượng, thuê QSDĐ chưa đủ mạnh, nên thị trường đất nông nghiệp hoạt động trầm lắng, kém hiệu quả.
Nguyên nhân liên quan đến nhận thức, tư tưởng
- Với suy nghĩ, nông nghiệp là sinh kế duy nhất của nông dân nên nhiều người dân vẫn có tâm lý giữ đất nông nghiệp. Trên thực tế, lao động nông thôn thoát ra khỏi nông nghiệp chủ yếu đi vào thị trường lao động phi chính thức, tiềm ẩn đầy rủi ro nên càng có lý do giữ đất nông nghiệp.
- Tâm lý lo ngại về phân hóa xã hội gắn liền với tích tụ ruộng đất. Và điều này đã xẩy ra trên thực tế.
- Nhiều người cho rằng, ruộng đất phân tán có thể giúp giảm thiểu rủi ro (an ninh lương thực trong khủng hoảng), đa dạng hóa sản xuất, sử dụng nguồn lực hiệu quả, tăng tính thanh khoản của đất.
Phương hướng, quan điểm và các nhóm giải pháp thúc đẩy hiệu quả tích tụ, tập trung ruộng đất trong thời gian tới
Quan điểm
- Phải bảo đảm mục đích tích tụ, tập trung ruộng đất là để phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao.
- Phải thấy tính đặc thù của việc hình thành những vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa để phát huy hiệu quả sử dụng ruộng đất sau khi tích tụ, tập trung.
- Việc tích tụ, tập trung ruộng đất phải bảo đảm tự nguyện, cùng có lợi giữa người giao QSDĐ, đơn vị tiếp nhận và sử dụng ruộng đất sau khi tích tụ, tập trung và Nhà nước.
- Quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất phải gắn với phát triển thị trường đất đai và giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh, như sự bất bình đẳng thu nhập, mất đất, nghèo khó, thất nghiệp...
Phương hướng
- Việc lựa chọn hình thức và giải pháp để thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp không chỉ dựa trên thực tiễn của quá khứ và hiện tại, mà còn phải gắn với tầm nhìn và mục tiêu trong tương lai của phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung trong vòng 10 năm - 15 năm tới, có tính tới việc giảm thiểu tổn phí trong hiện tại một cách hợp lý.
- Phải hướng tới xây dựng được nền nông nghiệp hiện đại, mức độ thương mại hóa cao, có năng lực cạnh tranh quốc tế cao, dựa trên các hình thức sản xuất có quy mô lớn và tập trung hơn: gia trại, trang trại, HTX, liên hiệp HTX trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Trong quá trình này, chú trọng tới việc chuyển dịch lao động nông nghiệp dôi dư sang các ngành, nghề phi nông nghiệp hoặc ở nông thôn hoặc tham gia lực lượng lao động đô thị.
Các nhóm giải pháp
1- Nhóm các giải pháp liên quan đến thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất
- Quy hoạch trung và dài hạn phát triển các vùng và sản phẩm nông nghiệp hàng hóa, nhất là hàng hóa nông sản chất lượng cao theo quan điểm thị trường. Quy hoạch phát triển nông nghiệp hàng hóa phải gắn với phát huy cao lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm; gắn với đẩy mạnh phát triển và lành mạnh hóa thị trường hàng hóa nông sản trong nước kết nối có hiệu quả với thị trường quốc tế.
- Gắn quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, bố trí phân công lại lao động trên phạm vi địa phương. Nhờ đó mới bảo đảm giải quyết tốt việc làm cho số lao động dôi dư, không còn đất để sản xuất. Như vậy, cơ cấu lại nền kinh tế nhanh hay chậm sẽ tác động trực tiếp đến tốc độ và quy mô tích tụ, tập trung ruộng đất. Do đặc thù cơ cấu kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương khác nhau, nên tốc độ và quy mô tập trung ruộng đất cũng cần được tính toán cho phù hợp với đặc điểm của từng địa phương.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực và theo quy hoạch. Khắc phục phương thức sản xuất của các hộ nông dân chủ yếu bằng thuê lao động; thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ tư duy và năng lực - trình độ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hộ nông dân; thúc đẩy phát triển mạnh các hộ chuyên sản xuất hàng hóa chất lượng cao, phát triển các trang trại hiện đại.
- Phát triển các mô hình HTX kiểu mới. Đổi mới một cách căn bản các mô hình HTX hiện có cũng như phát triển các mô hình HTX kiểu mới trên cơ sở bảo đảm đúng nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi”; thực hiện đúng hộ và HTX là hai chủ thể kinh tế, HTX hoạt động trên cơ sở hiệu quả của chính mình, đồng thời hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hóa.
- Thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt vào các cụm liên ngành tại các vùng chuyên canh nông nghiệp, khu/cụm công nghiệp - dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, các công viên nông nghiệp xanh, sạch cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch cho đô thị, các trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp tại địa bàn cơ sở ở nông thôn. Có cơ chế ưu đãi đặc biệt cho doanh nghiệp xây dựng cánh đồng lớn. Khuyến khích hình thức nông dân mua cổ phần trong các doanh nghiệp có hợp đồng với nông dân trong cánh đồng lớn hoặc thuê đất của hộ nông dân.
- Xây dựng trung tâm hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp, thực hiện chức năng cung cấp thông tin, hỗ trợ định giá, thiết kế hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong quá trình giao dịch đất đai giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế. Đây là nền tảng ban đầu để xây dựng thị trường QSDĐ nông nghiệp và phát huy quyền tài sản đối với đất nông nghiệp trong tương lai.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ cao trong nông nghiệp.
2- Nhóm các giải pháp liên quan đến hoàn thiện các chính sách về đất đai
- Đối với chính sách hạn điền: Luật Đất đai năm 2013 chính thức được áp dụng từ ngày 1-7-2014, đã có nhiều điểm mới khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất, nhất là thời hạn giao đất và hạn mức nhận chuyển QSDĐ. Tuy nhiên, hiện nay chính sách hạn điền vẫn được coi là “cản trở” đối với quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất cần được tháo gỡ.
- Bên cạnh những hoàn thiện về chính sách hạn điền, Nhà nước cần có chính sách bảo đảm ruộng đất tích tụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp, như quy định về thời hạn để đất trống không sản xuất thì thu hồi quyết định cấp đất, cho thuê đất (nếu được Nhà nước giao và cho thuê), bắt buộc thực hiện chuyển QSDĐ (đối với đất mua); đánh thuế vào những đối tượng tích tụ ruộng đất không “trực canh” hoặc không được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp...; giảm thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp tại Luật Sửa đổi các luật về thuế năm 2014; quy định và giám sát chặt chẽ diện tích tối thiểu để tránh việc hộ tách thửa thông qua thừa kế đất nông nghiệp; xây dựng quy định đối với đất thuê từ 10 năm trở lên thì cá nhân, tổ chức kinh tế được phép thế chấp bằng giá trị thuê để vay vốn sản xuất nông nghiệp; xây dựng cơ chế cho phép chuyển đổi linh hoạt và phân quyền cho địa phương thẩm định phương án chuyển đổi mục đích sử dụng giữa đất trồng lúa, đất trồng cây hằng năm, đất trồng cây lâu năm, đất cho chăn nuôi, đất nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch và bảo đảm các điều kiện về môi trường; bảo đảm quyền tài sản trên đất của những nhà đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn.
3- Nhóm các giải pháp hỗ trợ
- Thực hiện tốt các chính sách và giải pháp rút lao động ra khỏi nông nghiệp và hỗ trợ thay đổi sinh kế, như hỗ trợ đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn; tăng cường liên kết trong nông nghiệp; xuất khẩu lao động nông thôn; đào tạo và dạy nghề cho lao động nông thôn;...
- Tạo điều kiện vốn hóa đất đai, tài sản và phát triển bảo hiểm xã hội cho những nông dân rời bỏ nông nghiệp tham gia lĩnh vực phi nông nghiệp tại nông thôn và đô thị. Giải quyết đồng bộ các vấn đề xã hội thông qua: bảo hiểm nông nghiệp; xóa đói, giảm nghèo đa chiều; chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động nông thôn; chính sách bảo vệ quyền và trợ giúp người yếu thế...
- Đẩy mạnh phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn và tăng cường công nghiệp hóa nông thôn.
4- Giải pháp truyền thông
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân thực hiện các quyền cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng QSDĐ để sử dụng đất một cách hiệu quả, mang lại lợi ích nhiều hơn cho người sử dụng đất, đồng thời, cũng tạo ra diện tích đất lớn để đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Theo Phạm Dũng/Tạp chí Cộng sản