Phát huy vai trò của Mặt trận trong việc giám sát các chương trình, dự án đầu tư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

(Mặt trận) - Giám sát của Mặt trận ngày càng thể hiện rõ vai trò là một phương thức để nhân dân thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Công tác giám sát các chương trình, dự án đầu tư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số của Mặt trận những năm qua được triển khai hiệu quả, góp phần hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

 Đồng bào các DTTS huyện Mường Nhé đã có trên 70% hộ gia đình được cung cấp nước sinh hoạt. Ảnh: dienbientv.vn

Vai trò giám sát của Mặt trận được khẳng định tại Điều 2 Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị "Giám sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh"(1).

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, năm 2015, đã thể chế hóa Hiến pháp 2013, quy định rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Điều 25, cụ thể là:

1. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật.

2. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

3. Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia của nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.

 Quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát được qui định tại Điều 28 là:

1. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch giám sát; quyết định thành lập đoàn giám sát và tổ chức hoạt động giám sát theo kế hoạch hoặc khi cần thiết.

2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát.

3. Xem xét khách quan, khoa học những vấn đề liên quan đến nội dung giám sát.

4. Tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung kiến nghị sau giám sát khi cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.

5. Kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét áp dụng các biện pháp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân; đề nghị xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

6. Ban hành hoặc phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan ban hành văn bản về kết quả giám sát; chịu trách nhiệm về những nội dung kiến nghị sau giám sát.

7. Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị sau giám sát; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định của pháp luật.

8. Khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người có thành tích trong hoạt động giám sát(2).

Quyền và trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được qui định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều đạo luật khác nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội và đảm bảo lợi ích chính đáng của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ động phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành từng bước cụ thể hóa thành cơ chế giám sát trong một số đối tượng, chuyên ngành thông qua việc xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết liên tịch. Các hoạt động giám sát được pháp luật quy định tương đối đầy đủ về cơ chế, chính sách, thể hiện quyền giám sát của nhân dân và vai trò tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như: Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Đầu tư công… và các văn bản dưới luật ghi nhận giám sát của nhân dân thông qua Ban Thanh tra nhân dân; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định quyền và trách nhiệm của Mặt trận trong việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt của chính quyền nhân dân ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết liên tịch số 403/2017 giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Chính phủ - Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qui định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Giám sát của Mặt trận không mang tính quyền lực mà là giám sát mang tính nhân dân, Mặt trận đại diện cho một bộ phận nhân dân tham gia giám sát với cơ chế theo dõi - phát hiện - kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết.

Trong nhiều năm qua, thực hiện nhất quán chính sách dân tộc "Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ", Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối về công tác đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và Chính phủ đã thể chế hóa bằng các nghị quyết, quyết định về phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã tích cực tuyên truyền và vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; đồng thời, bằng nhiều hình thức giám sát, như: Theo dõi - phát hiện - kiến nghị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cố gắng, chủ động tổ chức nhiều hoạt động giám sát như: giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở; giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; giám sát đầu tư của cộng đồng...

Để các chương trình, dự án đảm bảo có hiệu quả những nội dung đã đề ra, tránh tình trạng lợi dụng sự đầu tư của Nhà nước để tham nhũng, lãng phí, đầu tư không có hiệu quả… Mặt trận đã triển khai các hoạt động giám sát với các hình thức hoạt động sau:

Động viên các tầng lớp nhân dân tăng cường công tác giám sát

Trong nhiều năm qua, được sự hướng dẫn của Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận các cấp vùng miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số đã động viên các tầng lớp nhân dân tăng cường công tác giám sát các chương trình, dự án đang triển khai ở khu dân cư, phát huy vai trò giám sát trực tiếp của nhân dân, đặc biệt quan tâm hoạt động giám sát việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở cơ sở nơi đồng bào trực tiếp được thụ hưởng theo mục tiêu của Chương trình 135, Chương trình 134 và Chương trình xây dựng nông thôn mới ở các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bằng việc thực hiện công khai các chế độ, chính sách của Nhà nước liên quan trực tiếp đến nhân dân, như: kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm; phương án bồi thường giải phóng mặt bằng, qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quản lý và sử dụng các loại quỹ đất; các khoản huy động nhân dân đóng góp; kết quả bình xét hộ nghèo… Thông qua việc công khai chế độ, chính sách tại các kỳ họp Hội đồng nhân dân, niêm yết tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; công khai trên hệ thống truyền thanh, các cuộc họp thôn, bản, tổ dân phố… công tác giám sát của Ban Công tác Mặt trận, Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng và của đông đảo nhân dân nên đã hạn chế được thất thoát, lãng phí trong thi công các công trình dân sinh, đem lại kết quả, hiệu quả trong đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng các công trình, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng tham gia, được xã hội thừa nhận và cấp ủy đánh giá cao. Công tác giám sát của Ban Thanh tra nhân dân ở nhiều nơi vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã tích cực hoạt động và đạt kết quả khả quan. Mặt trận các cấp một số địa phương đã tăng cường hoạt động giám sát thực hiện Pháp lệnh Dân chủ ở xã, phường, thị trấn và hoạt động này có tác động tích cực tới tác phong, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chính quyền ở cơ sở theo phương châm “gần dân, có trách nhiệm với dân”. Công tác giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư ở một số địa phương đã được dư luận xã hội quan tâm, đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Mặt trận đã tham gia phối hợp hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước

Trong nhiều năm qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật qui định và thực hiện qui chế phối hợp giữa Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp tham gia góp ý một số dự án Luật và dự án Pháp lệnh, tham gia ý kiến một số dự thảo quyết định, chỉ thị của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ; tham gia công tác rà soát văn bản qui phạm pháp luật, giám sát việc ban hành, tổ chức triển khai thực hiện theo các văn bản theo qui định, đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể về chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm của các vùng dân tộc thiểu số ở nước ta.

Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp tham gia các hoạt động xây dựng pháp luật, tham gia các hoạt động giám sát việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng miền núi, vùng đồng bào thiểu số; đã phối hợp tham gia các đoàn giám sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, giám sát các chương trình, dự án, các chính sách lớn được triển khai thực hiện ở vùng dân tộc thiểu số, như: Chính sách cử tuyển vào các trường cao đẳng, đại học; chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn; chương trình phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long… trong và sau các cuộc giám sát, Mặt trận đã thống nhất ý kiến với các đoàn giám sát để cùng có ý kiến, kiến nghị với Đảng, Quốc hội, Chính phủ về những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện, nhằm có những điều chỉnh, giải quyết những vấn đề vướng mắc do thực tiễn triển khai ở địa phương.

Tổng hợp ý kiến của nhân dân, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền

 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã tăng cường thực hiện các cuộc khảo sát nắm tình hình thực hiện chính sách dân tộc tại các địa phương, tổ chức nhiều đoàn đi khảo sát, nắm tình hình triển khai thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: khảo sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về công tác dân tộc ở các tỉnh miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khảo sát, đánh giá hiệu quả việc triển khai thực hiện Chương trình 135, Chương trình 30a tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, một số tỉnh khu vực Tây Nguyên và Tây Nam Bộ; khảo sát việc thực hiện Chỉ thị 06 của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò của người có uy tín. Đồng thời, Hội đồng tư vấn về Dân tộc đã giúp Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tư vấn những vấn đề cấp thiết đối với sự phát triển bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong năm 2017, Hội đồng tư vấn về Dân tộc đã tổ chức một số cuộc khảo sát tại một số địa phương để đánh giá kết quả thực hiện Nghị định 20/CP của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện phổ cập giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, xóa mù; khảo sát việc thực hiện Nghị định 82/CP của Chính phủ về dạy và học tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục đào tạo và trung tâm giáo dục thường xuyên; khảo sát việc thực hiện Quyết định 498 của Thủ tướng Chính phủ về tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số…

Cùng với việc tổ chức khảo sát thực tế ở một số địa phương, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn đề nghị Mặt trận các tỉnh gửi báo cáo kết quả giám sát, khảo sát để phân tích, tổng hợp đánh giá kết quả giám sát, khảo sát trong phạm vi cả nước, hướng dẫn Mặt trận các cấp phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội tiến hành giám sát các chương trình dự án có trên địa bàn. Thông qua việc giám sát, khảo sát nêu trên, cùng với việc tập hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp ý kiến, kiến nghị với Quốc hội thông qua các kỳ họp. Thông qua việc nắm bắt cụ thể tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở các địa phương và báo cáo của Mặt trận các địa phương, Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phân tích, đánh giá để có những kiến nghị cụ thể, thiết thực với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động giám sát của Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên còn nhiều hạn chế, tồn tại và khó khăn, đó là:

Thứ nhất, trong hầu hết các văn bản pháp luật hiện nay, vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ mới dừng ở quy định có tính nguyên tắc về quyền năng giám sát, chưa có quy định cụ thể và đầy đủ về cơ chế, chính sách, quyền và trách nhiệm của chủ thể bị giám sát và chủ thể giám sát, điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát, cơ chế tiếp nhận, giải quyết, xử lý vi phạm và trả lời cho chủ thể giám sát.

Thứ hai, ở những lĩnh vực hoạt động giám sát tuy có cơ chế đầy đủ, rõ ràng, hoặc pháp luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện, nhưng việc xem xét, xử lý của cơ quan chủ quản không thực hiện đúng các quy định về thời hiệu giải quyết vụ việc, làm cho hoạt động giám sát trong nhiều trường hợp không được giải quyết kịp thời và dứt điểm, gây bức xúc cho công dân và khó khăn cho cán bộ Mặt trận thực thi công việc giám sát.

Thứ ba, tổ chức và cán bộ của hệ thống Mặt trận các cấp còn nhiều bất cập và hạn chế. Muốn tổ chức hoạt động giám sát phải có bộ máy đồng bộ ở các cấp Mặt trận. Trong khi các lĩnh vực hoạt động giám sát của Mặt trận hiện nay tập trung ở cơ sở xã, phường; nhưng ở xã, phường, Mặt trận chỉ có Chủ tịch và Phó Chủ tịch Mặt trận là những người được Nhà nước xếp loại là cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách, thì trình độ, năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, kinh phí hoạt động của Mặt trận được khoán gọn với tiền lương và phụ cấp rất hạn hẹp tùy theo nguồn thu ngân sách của từng địa phương, do đó kinh phí chi cho các hoạt động giám sát rất khó khăn. Các thông tin về chính sách đầu tư của Nhà nước hầu như chưa được công khai, minh bạch để nhân dân thấy được lợi ích và trách nhiệm của mình, cũng là trở ngại lớn cho hoạt động giám sát của Mặt trận và dễ phát sinh các “điểm nóng” về khiếu kiện.

Để tiếp tục nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận trong thời gian tới, Mặt trận các cấp cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

1. Thực hiện tốt các nội dung phối hợp của Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT, ngày 15/6/2017 về quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tăng cường sự phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận, các cơ quan báo chí, tổ chức giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước. Phối hợp với Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội tổ chức giám sát nhằm phối kết hợp giữa giám sát quyền lực nhà nước, với giám sát nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội về chương trình giám sát hàng năm để cùng thống nhất ý kiến, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và Quốc hội.

2. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Công tác Mặt trận, phát huy dân chủ, động viên nhân dân tích cực giám sát để phòng ngừa, phát hiện những hành vi tham nhũng, lãng phí, nhất là những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng cần tập trung giám sát trước hết là quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản nhà nước, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư khi thu hồi đất, cấp phép xây dựng, kinh doanh, thu chi các loại phí, lệ phí, các khoản đóng góp của nhân dân và những biểu hiện lãng phí trong tiếp khách, hội nghị, mít tinh kỷ niệm, tổ chức đón nhận danh hiệu thi đua, mua sắm sử dụng xe công, xây trụ sở, lãng phí tài sản đất đai trong đầu tư xây dựng… trên địa bàn cả nước nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.

3. Tổ chức giám sát việc công khai nhiệm vụ, thu chi ngân sách, đề bạt, nâng lương, nâng ngạch, tiếp nhận, tuyển dụng, thuyên chuyển và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm; tổ chức lấy phiếu tín nhiệm hàng năm đối với Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cấp xã; tiếp nhận và phân loại đơn thư của công dân để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, đồng thời giám sát việc giải quyết đơn thư này. Đặc biệt, trong các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, Mặt trận sẽ kiên quyết không hiệp thương giới thiệu những trường hợp ứng cử viên có vi phạm pháp luật, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, vi phạm đạo đức lối sống, kê khai tài sản không trung thực và nhất là những trường hợp không được cử tri nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm.

Nguyễn Hữu Dũng

Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam

Chú thích:

(1) Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI): số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013, Quyết định ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013, Quyết định ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

(2) Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2015.