Mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới đang đặt ra không ít vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết. Những câu hỏi như: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những đặc trưng gì? Bằng cách nào để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay? đang tiếp tục đặt ra và đòi hỏi phải được trả lời bằng lý luận và thực tiễn sinh động.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Ảnh minh họa - Nguồn: Tuyengiao.vn

Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ. Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu trong các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ này, chúng ta chưa xác định được mô hình và những đặc trưng cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới(1).

Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động lực và mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức mới sâu sắc hơn về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ bản: “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới” (2). 

Có thể nói, so với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Đại hội X có những điểm mới. Hệ mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được xác định là đặc trưng thứ nhất trong 8 đặc trưng. Mục đích của chủ nghĩa xã hội được xác định rõ nét, cụ thể hơn. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mặc dù có những thay đổi về mặt ngôn từ (chẳng hạn: không đề cập đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu ở đặc trưng về quan hệ sản xuất; cụm từ các dân tộc trong nước được thay bằng các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam…), nhưng về bản chất cơ bản vẫn được giữ nguyên và bổ sung thêm một đặc trưng mới (có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Đây là một bổ sung quan trọng về đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng. So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức này đầy đủ hơn, toàn diện hơn.

Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(3).

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ một số vấn đề về nội dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa xã hội phải là dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh, nước mạnh tạo điều kiện cho dân giàu có chính đáng. Dân giàu không chỉ giàu về của cải vật chất mà giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tinh thần, đạo đức. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nước mạnh dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn định quốc phòng, an ninh vững mạnh, xã hội đoàn kết, đồng thuận, trong ấm ngoài êm, không gây thù oán trong quan hệ quốc tế. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức.

Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên trước công bằng, văn minh. Đây là một điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Dân chủ là bước tiến, là khát vọng của con người, của mỗi dân tộc. Dân chủ tư sản là bước tiến bộ so với chế độ phong kiến. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phát triển chưa từng có, giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tốt đẹp. 

Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nói quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp đặt ra nhiệm vụ phải không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất với sự đồng bộ của tất cả các yếu tố (chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản phẩm), chứ không chỉ về chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.

Thứ tưvề vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công chỉ là giải pháp để đạt tới mục đích vì cuộc sống tốt đẹp của con người. Mục tiêu xây dựng, phát triển con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa cần xác định con người, nhân dân Việt Nam là chủ thể xây dựng, tạo dựng xã hội tốt đẹp và được hưởng chính những thành quả đó. Con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là những người năng động, có trí tuệ, học vấn cao, vươn tới đỉnh cao của tri thức nhân loại.

Để làm rõ và cụ thể hóa những nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới: Thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Điểm mới nổi bật là: Văn kiện Đại hội XII của Đảng không chỉ xác định xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây chính là mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.

Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm, chiến lược gắn độc lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận thức hết tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ; chưa xác định nội dung “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn; tư duy giáo điều, giản đơn về chủ nghĩa tư bản, đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức, nô dịch loài người của chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ những tiến bộ, văn minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Việc giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chủ trương “lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển” là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhất là thời kỳ sau khi thống nhất đất nước, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm triệt tiêu nhiều động lực phát triển đất nước.

Trong phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không chú ý đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội.

Nhiều quy luật, đặc biệt là các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ đã bị nhận thức sai lệch hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở hữu, hai thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu các nguồn lực cần thiết, vốn có trong các thành phần kinh tế tất yếu phải tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa, con người mới xã hội chủ nghĩa còn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý chí… Các phương hướng, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung chung, trừu tượng. Vì vậy, trên thực tế chỉ tồn tại ở hình thức, không có nội dung, thực chất. Một số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội, công bằng xã hội giữa các tộc người, giữa miền núi với miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị… đều có những nhận thức chưa đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của các chính sách xã hội còn nhiều hạn chế.

Khắc phục những hạn chế nêu trên, bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại hội, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng tỏ hơn. Những điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau:

Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 

Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”(4). Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng - tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh tế, lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát triển quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối phát triển kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.

Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 

Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện: Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của V.I. Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại”(5). 

Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Những phương hướng cơ bản đó bao gồm: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh(6).

Tám phương hướng nêu trên về cơ bản đã thể hiện rõ phương thức, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các chủ trương trong đường lối đối nội, đối ngoại. Mặt khác, vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã được thể hiện rõ trong một số phương hướng. Bên cạnh việc xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, 8 phương hướng cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội XI cũng chỉ ra 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện các phương hướng đã nêu: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ(7). Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, được bổ sung mới trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng.

Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước, Đaị hội XII của Đảng làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(8) . Điểm mới của Đại hội XII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:

Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;

Hai là, xác định rõ phương châm “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất;

Ba là, xác định ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc xác định lộ trình công nghiệp hóa và mô hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam. Nhằm tạo dựng cơ sở vật chất cần thiết cho chủ nghĩa xã hội thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tất yếu khách quan. Đại hội XII nhấn mạnh “chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”(9) . Đây là yêu cầu khách quan và là một trong những chiến lược trọng tâm nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu con người, mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Bốn là, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Xét từ góc độ chính trị - xã hội, lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, vấn đề phát triển xã hội, “quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được tách riêng thành một mục (mục VIII). Điều này khẳng định nhận thức cũng như quyết tâm chính trị, hành động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đang từng bước xây dựng.

Năm là, về mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân: Đảng khẳng định việc thực hiện thành công mục tiêu chủ nghĩa xã hội hơn bao giờ hết đòi hỏi nhân tố nội lực, vai trò chủ quan mang tính quyết định. Để làm được điều đó rất cần tạo dựng mối quan hệ găn bó khăng khí, bền chặt giữa Đảng với Nhân dân.

Tóm lại, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện thành công con đường này, về thực tiễn, đòi hỏi các cấp, các ngành, cán bộ và nhân dân quán triệt những quan điểm của Đảng, đồng thuận, chung sức, quyết tâm thực hiện tốt những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của đất nước; về lý luận, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, khái quát, trả lời đầy đủ những vấn đề đặt ra: Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Để trả lời và làm rõ hai câu hỏi trên, trong thời gian tới, công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần quan tâm làm sáng tỏ một số vấn đề sau:

- Chủ nghĩa xã hội là tất yếu trong sự phát triển của nhân loại nhưng không phải là cái đương nhiên có, thụ động ngồi chờ mà phải thông qua sự nỗ lực hoạt động thực tiễn của Đảng, nhân dân ta để hiện thực hóa mục tiêu xã hội chủ nghĩa. 

- Chủ nghĩa xã hội là một trình độ mới trong sự phát triển của nhân loại, nó không có mô hình, con đường có sẵn mà đòi hỏi Đảng ta, trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải không ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội. 

- Cần nhận thức rõ ràng rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội có tính lịch sử, cụ thể; tùy từng giai đoạn nhất định mà xác định nội dung, phương thức phù hợp; thoát ly điều kiện thực tế, chủ nghĩa xã hội sẽ rơi vào ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí - đây là điều đã từng diễn ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại một số quốc gia, dân tộc.

*****

(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.8-9.

(2) Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần toàn quốc thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.68.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.58.

(5) V.I.Lênin, Toàn tập, t.41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.360.

(6), (7) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.71-72. 72-73.

(8) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.16.

(9) Sđd, tr.77.