(Mặt trận) - Công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta đã có những bước tiến lớn, toàn diện, ngày càng quyết liệt, chặt chẽ và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong khi phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã trở thành xu thế, phong trào không ngừng nghỉ thì đất nước đối mặt với thực tế chưa có tiền lệ, đó là tình trạng cán bộ “sợ sai”, “né trách nhiệm”, “đùn đẩy”, “dựa dẫm” vào tập thể - đây là “căn bệnh” vô cùng nguy hiểm không kém tham ô, tham nhũng, tha hóa quyền lực. Do đó, đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cần có cơ chế để bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
|
Ông Vũ Văn Tiến, Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Trưởng Ban Tuyên giáo cơ quan Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam phát biểu tại cuộc họp Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lần thứ tư, năm 2022-2023, ngày 26/4/2023 |
“Xây” và “chống” trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Kể từ khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (trong Nhân dân thường gọi là chiến dịch “đốt lò”), rất nhiều vụ đại án được phanh phui, đưa ra xét xử công khai, minh bạch.
Hàng loạt quan chức, trong đó có cả cấp Ủy viên Bộ Chính trị vi phạm pháp luật bị xử lý, cho thấy cuộc chiến chống “giặc nội xâm” - phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã không còn vùng cấm, không có ngoại lệ và không trừ một ai.
Trong 10 năm qua (2012-2022), cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng.
Đây là điều rất đau xót vì những vụ việc này không chỉ thiệt hại về vật chất, mất cán bộ nhưng là điều nên làm và cần phải làm trong bối cảnh hiện nay. Bởi tham nhũng, tiêu cực làm mục ruỗng đất nước, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân.
Điển hình là vụ “Việt Á thổi giá kit xét nghiệm”, tính đến tháng 5/2023, cơ quan điều tra đã khởi tố 30 vụ án, 107 bị can, trong đó có rất nhiều bị can là cựu cán bộ, lãnh đạo với cáo buộc vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ; đưa và nhận hội lộ.
Bên cạnh các con số biết nói nhưng rất đau lòng về số lượng bị cáo, số lần nhận hối lộ, số tiền đưa hối lộ, giá trị thiệt hại, đáng chú ý, đại án Việt Á, “Chuyến bay giải cứu, đăng kiểm … còn liên quan tới các cấp cao, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng, lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành trực thuộc Trung ương, tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang, một số cán bộ của Văn phòng Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng...
Việc điều tra, truy tố và đưa ra xét xử các đại án như Việt Á, “Chuyến bay giải cứu”, đăng kiểm,… là minh chứng cụ thể nhất, rõ ràng nhất cho thấy những nỗ lực, sự quyết tâm mạnh mẽ chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Song, chống tham nhũng, tiêu cực không chỉ là tận diệt những “con sâu làm rầu nồi canh” mà cao cả hơn, lớn lao hơn, mục đích của phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là đưa đất nước phát triển triển bền vững; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; tạo tiền đề cho xã hội vận hành ổn định; người dân tự giác chấp hành pháp luật… tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
“Muốn diệt cỏ dại phải trồng nhiều hoa”, do đó, để làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “xây” và “chống”.
“Xây” là quá trình củng cố, tăng cường, nâng cao tính ổn định, sự vững chắc, thúc đẩy sự phát triển. “Chống” là quá trình lọc bỏ những yếu tố lỗi thời, không tích cực, phá hoại sự ổn định, cản trở sự phát triển. Đây là quá trình diễn ra liên tục, không có giai đoạn nào “xây” và “chống” tách rời nhau[1].
Qua đó, nội hàm của “xây” trong chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng là rất rộng. “Xây” không những đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện các lớp các bộ, đảng viên có tài, có đức, có tâm, có tầm mà cần có cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”, cơ chế phát hiện, xử lý hiệu quả để “không dám tham nhũng” và cơ chế đãi ngộ hợp lý để “không cần, không muốn tham nhũng”. Hơn nữa, là cơ chế bảo vệ, khuyến khích, động viên những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, mạnh dạn đột phá vì lợi ích chung, từ đó, tạo ra “luồng gió mới”, nguồn sinh khí, năng lượng đổi mới tác động tích cực đến tâm lý xã hội và tạo niềm tin, nền tảng để cán bộ phấn đấu vượt khó, sáng tạo trong nhiệm vụ được giao.
Bởi lẽ, sự tha hóa, biến chất, cái xấu, cái ác nếu tồn tại phải tiêu diệt tới cùng nhưng cũng không ít cán bộ, đảng viên vì một khoảnh khắc lầm lỡ, thiếu bản lĩnh, trót nhúng chàm hay vì tinh thần đổi mới, sáng tạo, hướng tới lợi ích chung nhưng số đông chưa hiểu mà đẩy họ ra xa, khiến họ không thể quay đầu, đánh giá họ là sai phạm, thậm chí khiến họ vướng vòng lao lý… thì đó là một mất mát, tổn thất rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng vì chúng ta đã mất đi một bộ phận cán bộ giàu kinh nghiệm, được đào tạo lớp lang, bài bản.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ là đặc biệt quan trọng, then chốt của mọi then chốt, nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc[2]”; “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém[3]”.
Và khi công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở giai đoạn cao trào thì ở nhiều nơi, nhiều cấp ngành, nhiều địa phương lộ ra tình trạng cán bộ, công chức sợ sai, né tránh, không dám quyết, không dám làm; điều đáng nói là thực trạng này đã và đang dần lan rộng, tiếp tục có chiều hướng gia tăng nhưng chưa thấy có giải pháp căn cơ, giải quyết triệt để.
Tại buổi làm việc giữa Thường trực Chính phủ với Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/4/2023, phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã chỉ thẳng vấn đề: “Cán bộ, công chức Thành phố Hồ Chí Minh có tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm”.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng dẫn chứng, trong năm 2022, Thành phố Hồ Chí Minh có 584 văn bản hỏi và Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải trả lời 604 văn bản. Trong đó, nội dung hỏi hầu hết thuộc thẩm quyền Thành phố.
Việc này cho thấy có sự đùn đẩy, không phối hợp với nhau. Mặt khác, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành Thành phố chưa chặt chẽ, và sự phối hợp với các bộ, ngành cũng hạn chế, ảnh hưởng đến các khâu hướng dẫn, giải quyết các thủ tục.
Hệ quả nhãn tiền của tâm lý e sợ, co cụm của cán bộ là những “trận thua” về kinh tế khi Thành phố Hồ Chí Minh vốn là trung tâm kinh tế lớn nhất nước nhưng Quý I/2023 lại có mức tăng trưởng thấp nhất trong 5 Thành phố trực thuộc Trung ương, thậm chí sau nhiều tỉnh thành khác.
Điều này cho thấy, “căn bệnh” tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là “sợ sai”, “né trách nhiệm”, “đùn đẩy”, “dựa dẫm” vào tập thể đang trở nên vô cùng nguy hiểm, không kém tệ tham ô, tham nhũng và tha hóa quyền lực.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã quán triệt sâu sắc “Ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”. “Nếu anh nào làm không tốt thì thay luôn, chúng ta không thiếu người…Tiền bạc chết có mang theo được đâu, danh dự mới là điều thiêng liêng cao quý nhất”.
Cán bộ không dám làm hay im lặng chỉ có thể do người đó thiếu trách nhiệm hoặc trình độ năng lực, trình độ chuyên môn của anh hạn chế, không hiểu, không nắm rõ pháp luật dẫn đến trong công tác, thực hiện nhiệm vụ thì không biết mình đang làm đúng hay làm sai. Đối với những cán bộ dạng này cần phải khẩn trương thay thế nếu không sẽ cản trợ, kèo lùi sự phát triển của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm, lằn ranh giữa dám nghĩ, dám làm và cố ý làm trái là rất mong manh. Nguyên tắc trong hoạt động công vụ là cán bộ, công chức chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép.
Việc khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm chính là giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt, những vấn đề chưa có quy định hoặc có quy định nhưng còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính thống nhất...
Do vậy, việc dám nghĩ, dám làm trên trên cơ sở nền tảng khoa học, nằm trong khuôn khổ pháp lý, đạo lý, có tính khả thi, vì lợi ích chung được cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị ủng hộ, phê duyệt và tạo điều kiện để triển khai hoặc thí điểm thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động công vụ còn phải đảm bảo sự kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát của các cấp ủy đảng.
Để thể chế hóa quan điểm về bảo vệ cán bộ của và khắc phục tâm lý sợ sai lầm, sợ trách nhiệm, ngày 22/9/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ.
Theo đó, Kết luận số 14 cũng chỉ rõ những quan điểm mới trong bảo vệ cán bộ, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn khi giải quyết công việc.
Kết luận nêu rõ: “Khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ”.
Có thể nói, tinh thần bảo vệ cán bộ là rất quyết liệt, mạnh mẽ, nhưng nó chỉ hiện thực khi và chỉ khi cán bộ thật sự đề xuất đổi mới, sáng tạo“vì lợi ích chung”, chứ không phải sự sáng tạo vì lợi ích nhóm hay lợi ích cá nhân.
|
Quang cảnh cuộc họp Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lần thứ tư, năm 2022-2023, ngày 26/4/2023 |
Hoạt động giám sát, phản biện của Mặt trận góp phần loại bỏ tâm lý sợ sai cho cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò, vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Hoạt động giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, làm cho đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống, luôn vì lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW) trong đó, quy định cụ thể về khái niệm, mục đích, tính chất, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, nội dung, phạm vi, phương pháp giám sát, phản biện xã hội; quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong giám sát, phản biện xã hội; kết quả và việc xử lý kết quả giám sát, phản biện xã hội; các biện pháp bảo đảm cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội...
Hiến pháp năm 2013 ra đời là cơ sở vững chắc để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy tốt hơn hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Điều 9, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được sửa đổi năm 2015 trên cơ sở kế thừa Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đã cụ thể hóa, bổ sung những quy định mới những quy định về quyền và trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Hiến pháp năm 2013 và Quyết định số 217/QĐ-TW về: “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”.
Điều 25, Luật Mặt trận Việt Nam năm 2015 đã chỉ rõ tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát của Mặt trận như sau:
“1. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật.
2. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
3. Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giảm sát”.[4]
Xuất phát từ nhiệm vụ, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đảng của Nhân dân. Vì vậy, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội, mang tính Nhân dân, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Giám sát của Mặt trận nhằm mục đích phát hiện, kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Bên cạnh đó, chủ thể giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; Tổ chức chính trị - xã hội khi được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề nghị; các tổ chức thành viên khác tham gia hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Và đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là mọi cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao hàm nhiều nội dung rộng lớn, quan trong như việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong đó trọng tâm là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Việt Nam (bao gồm các cơ quan, tổ chức của Đảng và đảng viên).
Ngoài ra, Điều 14, Quy định số 69 ngày 06/7/2022 về kỷ luật tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm đã nêu rõ: “Vi phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
1. Vi phạm một trong các trường hợp sau, gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách:
a) Thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát việc tiếp thu ý kiến góp ý chính đáng của nhân dân, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo quy định.
b) Không xử lý theo thẩm quyền hoặc không chỉ đạo xử lý các trường hợp vi phạm trong tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cấp ủy, tổ chức đảng.
c) Lợi dụng tiếp thu ý kiến để làm sai lệch nội dung ý kiến góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân đối với tổ chức đảng, cơ quan nhà nước.
d) Thờ ơ vô cảm, không kiến nghị những vấn đề bức xúc, sai trái đã được phản ánh gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích, đời sống của người dân.
2. Vi phạm lần đầu những trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tái phạm hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo:
a) Không lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các cơ quan chức năng xem xét giải quyết kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
b) Không lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối thoại trực tiếp với công dân theo quy định dẫn đến gây mất ổn định tình hình chính trị - xã hội ở cơ quan, đơn vị, địa phương.
3. Kỷ luật bằng hình thức giải tán đối với trường hợp có chủ trương, hành động chống đối hoặc lợi dụng góp ý của nhân dân, giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để xuyên tạc chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng[5].
Qua thực tiễn cho thấy, công tác giám sát, phản biện, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội rất có sức nặng, đảm bảo sự răn đe, cảnh tỉnh, đồng thời kiến nghị các cơ quan chức năng xử lý nghiêm đối với chủ thể, tổ chức, cá nhân có hành vi vi nghiêm trọng nhưng cũng rất nhân văn, sâu sắc, xử lý có lý, có tình khi phát hiện các sai sót, các tồn tại, khuyết điểm, yếu kém từ sớm, từ xa, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, không để sai phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, từ đó tránh được những mất mát, đau thương trong công tác cán bộ vì dẫn đến mất cán bộ vì phải thi hành xử lý, kỷ luật.
Mặt khác, để thắng được lực cản của sự cố hữu, bảo thủ, hoạt động Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt công tác nắm tình hình Nhân dân, công nhân, người lao động, kịp thời tham mưu chỉ đạo giải quyết các vấn đề bức xúc của Nhân dân.
Chính nhờ sự tăng cường gắn bó mật thiết của cán bộ, đảng viên với Nhân dân, lắng nghe từ các “tai mắt” của Nhân dân sẽ giúp nhanh chóng nắm bắt được các mô hình mới, cách làm hay, tìm ra được cán bộ, cá nhân, nhân tố nổi trội, tiêu biểu có nhiều sáng kiến, đột phá, giải pháp sáng tạo, mang lại hiệu quả thiết thực.
Qua đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội mới có cơ sở báo cáo, kiến nghị với các cấp ủy đảng, chính quyền nhân rộng mô hình hay, tuyên dương, bảo vệ, tạo mọi điều kiện, khuyến khích các sáng kiến, sáng tạo của các cán bộ, đảng viên, cá nhân dám nghĩ, dám làm, dám đột phá đối với những vấn đề mới có lợi cho cơ quan, đơn vị và đất nước.
Đòi hỏi của thực tiễn bao giờ cũng đi trước các thiết chế và quy định của pháp luật. Và thực tế cho thấy, công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải song hành với phát triển kinh tế, thúc ý chí vươn lên, nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ vì lợi ích chung.
Nếu sự sợ sai, sợ trách nhiệm vẫn phổ biến trong nhiều cán bộ, nếu “virus trì trệ” vẫn lây lan ra nhiều cấp ngành, địa phương thì nỗi lo đất nước phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu là hiện hữu. Do vậy, “căn bệnh” sợ sai, đùn đẩy trách nhiệm, không dám đề xuất, đề xuất lòng vòng, “dựa dẫm” vào tập thể cần sớm được chẩn đoán, chữa trị một cách nghiêm túc, căn cơ, bài bản bằng các giải pháp như sau:
Một là, để kết luận của Bộ Chính trị có thể đi vào cuộc sống, ngăn chặn thói sợ trách nhiệm, điều đầu tiên là phải quán triệt trong nhận thức của tất cả cán bộ đảng viên mà trước hết là những người đứng đầu các cấp ủy từ Trung ương tới cơ sở. Cán bộ cấp lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cần tích cực, chủ động thực hiện chức trách, trách nhiệm của mình, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; không ngừng học tập nâng cao trình độ chính trị, đạo đức công vụ, năng lực công tác; có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, có tính tiên phong, gương mẫu; có tinh thần đoàn kết, trách nhiệm cao trước nhiệm vụ được giao với kết quả tốt; có thái độ công tâm, khách quan và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân; có ý thức kỷ luật; lãnh đạo, quản lý, điều hành cơ quan, đơn vị thực hiện hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.
Hai là, hiện nay, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, các chế độ chính sách còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thống nhất dẫn đến một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên còn e dè, sợ sai trong thực hiện nhiệm vụ, thậm chí có tâm lý “thà đứng trước hội kỷ luật còn hơn hội đồng xét xử”.
Do vậy, sau Kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ, các cơ quan chức năng theo thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể chế hóa thành các quy định rõ ràng, nếu cần thì xây dựng thành dự án Luật để cán bộ, đảng viên, cấp ủy các cấp có cơ sở thực hiện nhằm phát huy tối đa các thế mạnh, tiềm năng, sự năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ, công chức, đảng viên.
Bên cạnh đó, khi có đề xuất những vấn đề mới, chưa có trong quy định thì người đứng đầu, cấp ủy có thẩm quyền phải họp, thảo luận tập thể và thống nhất trong tập thể là cho hoặc không cho làm. Cần phải có thái độ rõ ràng đối với các đề xuất đổi mới này. Khi đã thống nhất chủ trương thì khi xảy ra những sai sót do khách quan không nên quy trách nhiệm cho cá nhân. Còn khi sai sót xảy ra do cá nhân trong quá trình thực hiện thì cần phải xem xét sự việc, hành vi trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đánh giá.
Ba là, cần kiên quyết đấu tranh, loại bỏ cán bộ “an phận thủ thường”, giữ mình, “tư duy nhiệm kỳ”, không dám nghĩ, không dám làm, sợ trách nhiệm. Phải coi đây là một biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những tư tưởng kiểu này không những làm chậm trễ, đình trệ hoạt động công vụ, gây bức xúc trong nhân dân mà còn cản trở động lực phát triển.
Mặt khác, cần có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện các nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Bốn là, con người là “nhân vô thập toàn” nhưng nếu cán bộ, đảng viên vì Tổ quốc, vì Đảng, vì Nhân dân và không trục lợi, tư lợi cá nhân thì Đảng, Nhà nước cần tăng cường bồi dưỡng, cập nhật kiến thức để giúp cán bộ tự hoàn thiện chính mình, đáp ứng lại các kỳ vọng mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó.
Đối với các sai phạm không thuộc về lỗi cố ý nhưng do cán bộ, đảng viên chủ quan, nóng vội dẫn đến mắc sai phạm, khuyết điểm khi hội đồng xét xử trong vụ việc hình sự, hội đồng kỷ luật trong các vụ việc hành chính cần xem xét rõ động cơ, mục đích, nguyên nhân sai phạm để lượng hình, cân nhắc các hình thức xử lý kỷ luật để đánh giá khách quan mọi mặt của vấn đề, xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, có hình thức chia sẻ trách nhiệm đối với các cán bộ, công chức, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám đột phá nhưng không may vướng phải những vi phạm, khuyết điểm trong khi thi hành công vụ.
Năm là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân.
Hệ thống Mặt trận các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm tốt hơn nữa công tác giám sát, phản biện xã hội; thực hiện phương châm giám sát phải mở rộng để kịp thời phát hiện, nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa xảy ra vi phạm từ xa, từ sớm; kịp thời báo cáo, phối hợp với các cấp ủy, chính quyền để khẩn trương giải quyết, chấn chỉnh, xử lý các hành vi của những cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu sai phạm, không để khuyết điểm, vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng, dẫn đến vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Cán bộ Mặt trận các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên cần thường xuyên bám địa bàn, bám cơ sở, tăng cường giao lưu, trao đổi với phương châm “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” để nhanh chóng nắm bắt các gương điển hình tiên tiến, cách làm hay của các cán bộ, công chức, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
Qua đó, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể cần khuyến khích mọi cá nhân, tập thể có những việc làm đột phá, đổi mới, sáng tạo để đưa đất nước đi lên. Sự tham gia phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, góp ý vào dự thảo chủ trương, chính sách của Mặt trận cần tiếp thu các ý kiến, xây dựng, đóng góp của các cán bộ, đảng viên có trình độ, có hiểu biết, khuyến khích họ dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm nhưng không thể làm sai và không dám làm sai.
[1] Mối quan hệ giữa “xây” và “chống” trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo tinh thần cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 541 (tháng 3/2023)
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.5, tr. 309
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 280
[4] Luật Mặt trận Việt Nam năm 2015
[5] Quy định số 69 ngày 06/7/2022 về kỷ luật tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm
TS. Vũ Văn Tiến, Ủy viên UBTƯ MTTQ Việt Nam,
Trưởng ban Tuyên giáo cơ quan UBTƯ MTTQ Việt Nam