Xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân: Yêu cầu thực tiễn đang đặt ra

(Mặt trận) - Pháp luật về giám sát của Nhân dân là bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có các văn bản quan trọng quy định về quyền và hoạt động giám sát của Nhân dân như: Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tiếp cận thông tin... và mới đây là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2023). Tuy nhiên, vẫn cần có một đạo luật riêng quy định một cách toàn diện, cụ thể về hoạt động giám sát của Nhân dân, đó là Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân.

Dân giám sát, dân thụ hưởng ở Tuyên Quang

Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tỉnh Ninh Bình

Đổi mới nội dung giám sát, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Hữu Dũng phát biểu tại Hội thảo Khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân”, tháng 3/2023.  

Sự cần thiết xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân

Thứ nhất, việc xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân nhằm tiếp tục thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; về dân chủ xã hội chủ nghĩa và về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Trong đó, có việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Cụ thể là góp phần: “Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân”1; “Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa kịp thời, đầy đủ quyền và trách nhiệm tham gia giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò giám sát của nhân dân...”2.

“Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Ðảng, Nhà nước và Nhân dân... Hoàn thiện cơ chế để Nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và các cơ quan báo chí trong giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước”3.

Thứ hai, việc xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân góp phần tiếp tục triển khai thực hiện, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về vai trò chủ thể trung tâm của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền dân chủ và các quyền cơ bản của công dân; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ, về phân công và kiểm soát quyền lực, về giám sát của Nhân dân; góp phần khắc phục những hạn chế do quy định phân tán, chồng chéo, thiếu toàn diện, thiếu cụ thể, thiếu khả thi, thậm chí là còn nhiều quy định chưa hợp lý về giám sát của Nhân dân4. Qua đó, tiếp tục khắc phục những hạn chế, vướng mắc và nâng cao một bước chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Nhân dân trên thực tế, thiết thực góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

Thứ ba, việc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (thông qua Đoàn Chủ tịch) thực hiện quyền đề nghị, xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân là thiết thực, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhân dân; thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, phát huy vai trò của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đây cũng là hoạt động cần thiết để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2019 - 2024 về "Nghiên cứu đề xuất xây dựng Dự án luật về hoạt động giám sát của Nhân dân" đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (năm 2019) đề ra5.

Những nội dung và chế định cơ bản của Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân

Việc xác định nội dung và chế định cơ bản của Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân cần bám sát lý luận, thực tiễn hoạt động giám sát của Nhân dân và đặc biệt chú trọng bám sát nội dung chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 26/10/2022 về việc khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành, nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế đầy đủ, quyền và trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò giám sát của Nhân dân; trách nhiệm trả lời, giải quyết các ý kiến, kiến nghị sau giám sát; cơ chế tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử; chế tài xử lý tổ chức, cá nhân không hợp tác, gây khó khăn, cản trở hoạt động giám sát hoặc lợi dụng quyền giám sát để gây tổn hại cho tổ chức, cá nhân; kinh phí bảo đảm cho hoạt động giám sát; cơ chế động viên, khuyến khích đoàn viên, hội viên các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, người có kinh nghiệm thực tiễn, người có uy tín trong các dân tộc6.

Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân cần thể hiện được những nội dung và chế định cơ bản, quan trọng sau đây:

Những quy định chung

Dự thảo Luật cần thiết kế một chương thể hiện những quy định chung của Luật (Chương “Những quy định chung”). Trong đó, quy định những nội dung chính sau: Phạm vi điều chỉnh của Luật; Định nghĩa về hoạt động giám sát của Nhân dân; Mục đích, ý nghĩa của hoạt động giám sát của Nhân dân; Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động giám sát của Nhân dân; Các chủ thể có quyền thực hiện hoạt động giám sát của Nhân dân; Quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát của Nhân dân; Đối tượng và phạm vi giám sát của Nhân dân; Quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng chịu sự giám sát của Nhân dân; Nội dung giám sát của Nhân dân; Các hình thức giám sát của Nhân dân; Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; Giải thích các từ ngữ cần thiết trong Luật.

Những nội dung và chế định cơ bản

Các quy định về giám sát của Nhân dân đối với việc tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính, gồm: Giám sát việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Giám sát việc thành lập, giải thể, sáp nhập các cơ quan, tổ chức; Giám sát việc thành lập, giải thể, sáp nhập các đơn vị hành chính;...

Các quy định về giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, gồm: Giám sát hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (gồm: Giám sát hoạt động ban hành Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật; Giám sát hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng; Giám sát hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội; Trách nhiệm của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với hoạt động giám sát của Nhân dân...); Giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp (gồm: Giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Giám sát hoạt động của các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp; Trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và người đứng đầu các cơ quan đối với hoạt động giám sát của Nhân dân...); Giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (gồm: Giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân; Giám sát hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân; Trách nhiệm của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đối với hoạt động giám sát của Nhân dân...).

Các quy định về giám sát của Nhân dân đối với cán bộ, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước (gồm: Xác định các nhóm đối tượng chịu sự giám sát; Nội dung giám sát; Trách nhiệm của cán bộ, đại biểu dân cử, công chức, viên chức đối với hoạt động giám sát của Nhân dân...).

Các quy định về giám sát của Nhân dân đối với các tổ chức đảng và đảng viên (gồm: Xác định các nhóm đối tượng chịu sự giám sát; Nội dung và phạm vi giám sát; Trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên đối với hoạt động giám sát của Nhân dân...).

Các quy định về những biện pháp bảo đảm cho hoạt động giám sát của Nhân dân (gồm: xác định các bảo đảm về nhân lực, về tổ chức, về kinh phí, phương tiện; về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; về chế tài xử lý đối với những trường hợp vi phạm các quy định về hoạt động giám sát của Nhân dân...).

Trên đây là một số nội dung và chế định cơ bản của Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân. Những vấn đề này mang tính chất sơ khởi, gợi mở ban đầu và khi nghiên cứu, xây dựng Dự án Luật trong thời gian tới, các vấn đề này sẽ tiếp tục được nghiên cứu điều chỉnh, hoàn thiện thêm.

Đề xuất Đề cương (sơ bộ) Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân

Đề cương Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân có thể coi là những "phác thảo" cơ bản, là bộ khung ban đầu, cơ bản nhất để hình dung được về kết quả là mục tiêu cuối cùng hướng đến, đó là Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân. Đề cương Dự thảo Luật phải là nền tảng thể hiện được một cách khoa học, hợp lý các nội dung và chế định cơ bản của Dự án Luật, các nội dung khác cũng như đáp ứng được các yêu cầu về mặt kỹ thuật lập pháp theo quy định của pháp luật.

Việc xác định sớm Đề cương sơ bộ dự thảo của Dự án Luật có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định định hướng nghiên cứu, hoàn thiện các nội dung của Dự án Luật, tập trung được các nguồn lực để làm sáng tỏ, củng cố các luận cứ khoa học và thực tiễn, các dự báo chính sách cho các nội dung của Dự án Luật.

Qua nghiên cứu các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kinh nghiệm xây dựng các dự án luật và nhất là căn cứ vào các yêu cầu điều chỉnh pháp luật về hoạt động giám sát của Nhân dân đang đặt ra, Đề cương (sơ bộ) Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân cần thể hiện được những nội dung và chế định cơ bản như đã trình bày ở phần trên và có thể gồm tối thiểu 8 chương, 3 mục với một số điều quy định cơ bản, cụ thể sau đây:

Chương 1. Những quy định chung (gồm các điều: Điều 1. Những quy định chung; Điều 2. Phạm vi điều chỉnh; Điều 3. Mục đích, ý nghĩa; Điều 4. Nguyên tắc; Điều 5. Chủ thể giám sát; Điều 6. Quyền, trách nhiệm của chủ thể giám sát; Điều 7. Đối tượng giám sát; Điều 8. Quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng chịu sự giám sát; Điều 9. Phạm vi và nội dung giám sát; Điều 10. Hình thức giám sát; Điều 11. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức; Điều 12. Giải thích từ ngữ).

Chương 2. Giám sát việc tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính (gồm các điều: Điều 13. Giám sát việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Điều 14. Giám sát việc thành lập, giải thể, sáp nhập các cơ quan, tổ chức; Điều 15. Giám sát việc thành lập, giải thể, sáp nhập các đơn vị hành chính).

Chương 3. Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước (gồm các mục, điều: Mục 1. Giám sát hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều 16. Giám sát hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Điều 17. Giám sát hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng; Điều 18. Giám sát hoạt động giám sát; Điều 19. Trách nhiệm của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; Mục 2. Giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 20. Giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Điều 21. Giám sát hoạt động của các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Điều 22. Giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp; Điều 23. Trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và người đứng đầu các cơ quan); Mục 3. Giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân (Điều 24. Giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân; Điều 25. Giám sát hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân; Điều 26. Trách nhiệm của Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân).

Chương 4. Giám sát cán bộ, đại biểu dân cử, công chức, viên chức (gồm các điều: Điều 27. Đối tượng giám sát; Điều 28. Nội dung giám sát; Điều 29. Trách nhiệm của cán bộ, đại biểu dân cử, công chức, viên chức).

Chương 5. Giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên (gồm các điều: Điều 30. Đối tượng giám sát; Điều 31. Nội dung giám sát; Điều 32. Trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên).

Chương 6. Giám sát hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội (gồm các điều: Điều 33. Đối tượng chịu sự giám sát; Điều 34. Nội dung giám sát; Điều 35. Trách nhiệm của tổ chức chịu sự giám sát).

Chương 7. Điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát (gồm các điều: Điều 36. Bảo đảm thực hiện hoạt động giám sát; Điều 37. Việc tiếp nhận, giải trình và giải quyết kiến nghị giám sát; Điều 38. Tổ chức bộ máy và nhân sự; Điều 39. Kinh phí giám sát; Điều 40. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức; Điều 41. Khen thưởng và xử lý vi phạm).

Chương 8. Điều khoản thi hành (gồm các điều: Điều 42. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan tại các văn bản hiện hành; Điều 43. Hiệu lực thi hành; Điều 44. Điều khoản chuyển tiếp; Điều 45. Việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành)7.

Dự kiến một số tác động và giải pháp xử lý trong quá trình xây dựng Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân

1. Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân sẽ là đạo luật chuyên ngành đầu tiên được xây dựng quy định về hoạt động giám sát của Nhân dân, với phạm vi điều chỉnh rất rộng, với nhiều nhóm chủ thể thực hiện quyền giám sát khác nhau, nhiều nhóm đối tượng chịu sự giám sát khác nhau, nhiều hình thức giám sát khác nhau và hậu quả pháp lý cũng rất khác nhau.

Nếu so sánh về phạm vi điều chỉnh với một văn bản luật tương đồng cho thấy: Nếu Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 chỉ quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động giám sát8 thì Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân quy định về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, các cộng đồng dân cư, các tập thể, các cá nhân công dân (gồm mọi cá nhân có đủ năng lực theo quy định pháp luật); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động giám sát... tức là phạm vi bao trùm gần như toàn xã hội, lớn hơn cả về số lượng tuyệt đối cũng như đa dạng gấp nhiều lần về các nhóm, loại chủ thể chịu sự giám sát.

Với phạm vi tác động của Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân rất rộng như trên, dẫn tới yêu cầu phải nghiên cứu, điều chỉnh một cách toàn diện mối quan hệ giữa các chủ thể giám sát với các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát đã được quy định trong hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để tránh sự chồng chéo, trùng lắp, mâu thuẫn hoặc bỏ sót. Cần chú trọng thực hiện yêu cầu này ngay trong quá trình xây dựng Dự án Luật và cả sau khi Luật được ban hành.

2. Để bảo đảm thể chế hóa đúng, đầy đủ đường lối, quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp về chủ quyền của Nhân dân đối với Nhà nước, cũng như đối với tổ chức, hoạt động của các tổ chức đảng và để bảo đảm tính khả thi của Luật, thì nhất thiết trong Luật phải quy định đầy đủ, cụ thể các quyền, thẩm quyền của các tổ chức, cá nhân là chủ thể giám sát cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của các đối tượng chịu sự giám sát là các cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước và các cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức... vốn hiện nay quy định còn chung chung, thiếu cụ thể và ít khả thi.

Điều này rất khó khăn bởi sẽ “đụng chạm” đến quyền, lợi ích của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, bởi tâm lý phổ biến là không ai muốn chịu sự giám sát, muốn “lấy đá ghè chân mình”. Vì vậy, muốn thực hiện được, yêu cầu phải có quyết tâm rất cao thể hiện bằng hành động của cả hệ thống chính trị, nhất là của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và sự ủng hộ rộng rãi của xã hội ngay từ khi soạn thảo Dự án Luật này, cũng như trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện. Vì vậy, đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam căn cứ tình hình cụ thể để kiến nghị, đề xuất việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quốc hội, Chính phủ để lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc triển khai thực hiện.

3. Để triển khai và thực hiện được các hoạt động giám sát một cách đồng bộ, thường xuyên, có hiệu lực và hiệu quả theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân, yêu cầu phải có các hoạt động quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, tập huấn với quy mô rộng lớn toàn xã hội, trước hết là trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao nhận thức, kỹ năng và tinh thần, thái độ tích cực đối với hoạt động giám sát của Nhân dân.

Đề nghị các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo công tác này, đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn các cấp trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc phải “vào cuộc” với vai trò nòng cốt, đầu mối tổ chức các hoạt động quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, tập huấn ở các cấp, các tổ chức thành viên.

4. Để triển khai và thực hiện được các hoạt động giám sát một cách có hiệu lực và hiệu quả theo quy định của Luật, thì cần tính toán và có sự đầu tư thích đáng về tổ chức bộ máy, nhân lực và tài chính cho hoạt động này.

Đề nghị Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quan tâm tăng cường, kiện toàn về tổ chức bộ máy, nhân sự tham gia trực tiếp hoạt động giám sát của hệ thống Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội vốn còn mỏng và phân tán9 cũng như bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng và bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giám sát hiện nay. Đây sẽ là lực lượng chủ chốt vừa trực tiếp tham mưu, thực hiện công tác giám sát, vừa là lực lượng nòng cốt tuyên truyền, tập huấn... và vận động, khích lệ, động viên mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội tích cực tham gia giám sát.

Chú thích:

1.  Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

2,6. Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

3. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

4. Xem: Pháp luật về hoạt động giám sát của Nhân dân - Thực trạng và giải pháp, Nguyễn Thị Hoa, Tạp chí Mặt trận số 235, tháng 3/2023.

5. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2019, tr.92.

7. Đề cương này là những phác thảo ban đầu, sơ bộ nhất để hình thành ý tưởng về Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân. Do vậy, số chương, mục, điều cũng như nội dung các chương, mục, điều này chỉ có tính chất tham khảo, sẽ được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện thêm sau này trong quá trình soạn thảo Dự án Luật.

8.  Điều 1 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.

9. Theo số liệu tổng hợp (năm 2022) từ báo cáo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh đến cuối năm 2022 có tổng số 244 công chức hiện đang công tác tại các Ban Dân chủ - Pháp luật của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (102 đồng chí nữ, chiếm 41,8 %; 98 đồng chí chuyên ngành Luật chiếm 40 %; 22 đồng chí trình độ trên Đại học chiếm 9 %); Bình quân mỗi Ban Dân chủ - Pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh có 3 công chức; nhiều nhất có 6 công chức (Yên Bái); Ban ít nhất chỉ có 2 công chức (Sóc Trăng, Ninh Thuận); Có 60/63 đơn vị có Trưởng Ban Dân chủ - Pháp luật chiếm 95 %; 3/63 đơn vị có Phó Trưởng Ban phụ trách, chiếm 5 %; 21 đồng chí Trưởng Ban và Phó Trưởng Ban phụ trách được đào tạo chuyên ngành Luật chiếm 33%; 8 đồng chí chuyên ngành Xây dựng Đảng và Quản lý hành chính, chiếm 13%; 7 đồng chí chuyên ngành Sư phạm, chiếm 11 %; 27 đồng chí chuyên ngành khác chiếm 43 % (Đề án của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trình Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” (kèm theo Tờ trình số 17-TTr/ĐĐ- MTTQ ngày 17/6/2022 của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).

Nguyễn Quang Minh - Tiến sĩ, Cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam