(Mặt trận) - Chiều 26/10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội làm việc tại Hội trường, nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Phòng thủ dân sự.
|
Quang cảnh Kỳ họp. Ảnh: Quang Khánh |
Nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về phòng thủ dân sự
Trình bày Tờ trình dự án Luật Phòng thủ dân sự, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang nêu rõ, trong những năm qua, công tác phòng thủ dân sự từng bước được hoàn thiện cả về thể chế và tổ chức thực hiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu phòng, chống, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, góp phần to lớn vào việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhân dân, tạo môi trường ổn định phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được còn một số vấn đề đặt ra, cần phải luật hóa để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tiễn.
Cụ thể, Bộ trưởng Phan Văn Giang nêu rõ, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ ràng các cấp độ về phòng thủ dân sự làm cơ sở để xác định các biện pháp ứng phó. Việc quy định các biện pháp ứng phó cũng chưa có sự thống nhất: Có văn bản quy định biện pháp theo cấp độ, có văn bản quy định theo quy mô, đơn vị hành chính hoặc theo trách nhiệm, thẩm quyền của từng cơ quan, có văn bản liệt kê theo loại dịch bệnh, có văn bản quy định liệt kê các biện pháp để tùy thuộc tình hình cơ quan có trách nhiệm lựa chọn áp dụng biện pháp thích hợp... dẫn đến khó khăn trong công tác triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, thực tiễn công tác phòng, chống, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh thời gian qua, nhất là đối với thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm, quy mô lớn cho thấy nhiều biện pháp đã được quy định nhưng chưa đủ, chưa phù hợp và hiệu quả; nhiều biện pháp chưa được pháp luật quy định nhưng do yêu cầu cấp thiết đã được áp dụng và phát huy hiệu quả, như: Giãn cách xã hội, bắt buộc sơ tán người, tài sản để bảo đảm an toàn, lực lượng phòng, chống, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, nguồn lực, chính sách an sinh xã hội, khôi phục kinh tế,... Thực tiễn cũng đòi hỏi phải có những biện pháp có tính chuyển tiếp trước khi xã hội chuyển sang tình trạng khẩn cấp (giai đoạn tiền khẩn cấp) cần được luật hóa để có cơ sở pháp lý và thực hiện đồng bộ, thống nhất.
Theo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, mục đích xây dựng dự án Luật nhằm tạo khung pháp lý chung nhất cho việc phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh nhằm bảo vệ cao nhất tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhân dân, nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về phòng thủ dân sự. Đồng thời, tăng cường các biện pháp phòng ngừa và bảo đảm tính chủ động trong công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ người dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực về phòng thủ dân sự, góp phần làm giảm thiểu thiệt hại do thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh gây ra; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và từng bước hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Phân biệt rõ phạm vi điều chỉnh với các luật chuyên ngành
Theo Báo cáo thẩm tra dự án Luật cho Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới trình bày, Ủy ban Quốc phòng và An ninh nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự với các căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn như đã nêu tại Tờ trình của Chính phủ. Đồng thời cho rằng, việc xây dựng luật sẽ khắc phục những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện các hoạt động phòng thủ dân sự, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân. Ngày 30.8.2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về Phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo” đã xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là “Xây dựng Luật Phòng thủ dân sự”.
Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh nêu rõ, một số ý kiến cho rằng, cần phân biệt rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng thủ dân sự với các luật chuyên ngành, để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, khó áp dụng và nghiên cứu, bổ sung, làm rõ thêm một số nội dung; luật hóa các quy định đã thực hiện ổn định để bảo đảm bao quát, toàn diện hơn. Có ý kiến đề nghị Luật Phòng thủ dân sự chỉ nên điều chỉnh về phòng ngừa, ứng phó với thảm họa, sự cố gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh nhận thấy, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật rộng, nhiều nội dung liên quan đến các luật chuyên ngành. Do đó, cần phân định được phạm vi điều chỉnh của Luật này với các luật khác; xây dựng Luật theo hướng quy định những chính sách, nguyên tắc, cơ chế chung về phòng thủ dân sự; cần bám sát Nghị quyết số 22-NQ/TW, các Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và yêu cầu thực tiễn để quy định toàn diện hơn các nội dung về phòng thủ dân sự; rà soát hệ thống pháp luật để bổ sung những quy định còn thiếu liên quan đến Phòng thủ dân sự để triển khai phù hợp trên thực tế.
Về đánh giá mức độ rủi ro về thảm hoạ, sự cố (Điều 6), Chủ nhiệm Ủy ban Lê Tấn Tới cho biết, nhiều ý kiến cơ bản nhất trí với dự thảo Luật vì đây là nội dung rất cần thiết làm cơ sở để xác định chính xác cấp độ phòng thủ dân sự, công bố cấp độ phòng thủ dân sự và kịp thời triển khai, áp dụng các biện pháp phù hợp, tránh chồng chéo với các luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị làm rõ hơn mối liên hệ giữa quy định về đánh giá cấp độ của thảm họa, sự cố trong các luật chuyên ngành với đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố làm căn cứ để xác định cấp độ phòng thủ dân sự tương ứng.
Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng, việc quy định tiêu chí để đánh giá mức độ rủi ro về thảm hoạ, sự cố phù hợp là rất cần thiết, nhưng đề nghị tiếp tục nghiên cứu và quy định cụ thể hơn Điều này, trong đó cần làm rõ hơn tiêu chí đánh giá mức độ nguy hiểm và tính chất đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố, làm căn cứ quy định các nội dung liên quan trong dự thảo Luật.
Minh Trang