Bổ sung, sửa đổi Luật Đất đai 2013: Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, đáp ứng những vấn đề thực tiễn đặt ra

(Mặt trận) - Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội ban hành và có hiệu lực thi hành, qua đó đã tạo hành lang pháp lý cho các cá nhân, tổ chức thực hiện quyền và trách nhiệm của mình trong quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, đến nay một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 không còn phù hợp cần được chỉnh sửa. Bài viết đề xuất sửa đổi một số nội dung của Luật Đất đai năm 2013, tập trung các quy định về quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân để đồng bộ với hệ thống pháp luật nước ta và đáp ứng những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc với UBND TP. Hồ Chí Minh

Dự án Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn: Phát triển hài hòa và gắn kết giữa không gian đô thị và nông thôn

Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị phản biện xã hội (lần 2) đối với dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) 

Quan điểm của Đảng về việc sửa đổi Luật Đất đai năm 2013

Thứ nhất, quan điểm của Đảng ta là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nước tham gia quản lý và sử dụng hiệu quả. Đây là quan điểm xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta về vấn đề đất đai kể từ sau khi nước ta giành được độc lập, thống nhất đất nước.

Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã đề ra quan điểm: “Tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân”, thì Nhân dân phải là chủ sở hữu đối với đất đai, mà đại diện chính là Nhà nước. Quan điểm này đã được thể hiện trong các văn bản của Đảng như: Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Thứ hai, sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 để đảm bảo nguyên tắc thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai; kiên quyết khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu cơ và sử dụng đất đai lãng phí.

Thứ ba, Luật Đất đai đầu tiên được ban hành cách đây hơn 35 năm với 5 lần sửa đổi, gần nhất là vào năm 2013. Sau 9 năm thi hành, Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ bất cập. Một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 chưa tương thích với Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật có liên quan như: Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Quy hoạch, Luật Lâm nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Doanh nghiệp, Luật Công chứng, Luật Đấu giá tài sản, Luật Tổ chức chính quyền địa phương,...

Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong quá trình xây dựng Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi).

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao đã xác định quan điểm: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai”.

Những vướng mắc, bất cập chủ yếu trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức

Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XIII đã nhấn mạnh: “Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước”.

Tình trạng “không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước” cũng có thể hiểu ngược lại là quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của không ít cá nhân, tổ chức bị ảnh hưởng, thậm chí là bị thiệt hại. Do đó, việc sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 phải hướng đến khắc phục có hiệu quả những vướng mắc, bất cập nổi lên trong những năm qua để ghi nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức là chủ thể các quan hệ pháp luật đất đai trong thời gian tới.

Đến nay, kết quả thực hiện theo báo cáo của các địa phương, trên địa bàn cả nước đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu cho hầu hết các đối tượng đang sử dụng đất1.

Kết quả này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai, bảo đảm điều kiện pháp lý cho người sử dụng đất thực hiện các quyền lợi hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về đất đai.

Trong Báo cáo kết quả giám sát và kiến nghị sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nêu ra sáu bất cập lớn của dự thảo Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) bao gồm:

1) Một số quy định của dự thảo Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) chưa tương thích với Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật có liên quan;

2) Vướng mắc, bất cập trong quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đất theo Luật Đất đai (sửa đổi) chưa thể hiện đầy đủ các không gian quy hoạch; quyền giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp chưa rõ ràng, còn chung chung, việc lấy ý kiến người dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa đầy đủ);

3) Vướng mắc, bất cập trong quy định về giao đất, cho thuê đất, quy định về tài chính với đất đai;

4) Vướng mắc, bất cập trong quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải quyết tranh chấp về đất đai;

5) Vướng mắc, bất cập trong quy định về quyền sử dụng đất đai của cộng đồng dân tộc thiểu số;

6) Vướng mắc, bất cập về tham vấn người dân trong lĩnh vực đất đai.

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra.

Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình. Bên cạnh đó, người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; không điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân; kịp thời có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được khai thác, sử dụng với hiệu quả cao nhất.

Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai; kiên quyết khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu cơ và sử dụng đất đai lãng phí. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.

Hiện đại hóa công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai. Củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tập trung, đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai trò và năng lực các cơ quan tư pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Đất đai phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, lượng hóa, hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế; được quy hoạch sử dụng hiệu quả, hợp lý với tầm nhìn dài hạn, hài hòa lợi ích giữa các thế hệ, các vùng, miền, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển giáo dục, văn hóa, thể thao; bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.

Giải quyết tốt những bất cập, vướng mắc trong quản lý và sử dụng đất do trước đây để lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn.

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân trong dự thảo Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi)

Một là, sửa đổi quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trên cơ sở kết quả tổng hợp, rà soát vướng mắc, bất cập để sửa đổi, bổ sung các quy định về nguyên tắc lập quy hoạch, nội dung quy hoạch, trách nhiệm lập quy hoạch, thẩm định, điều chỉnh, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng đổi mới nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Quy hoạch sử dụng đất phải đi trước một bước làm cơ sở cho quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất; phải đảm bảo đồng bộ, thống nhất, bao gồm cả quy hoạch không gian phía trên mặt đất, không gian ngầm, có tính tổng thể, tầm nhìn dài hạn, hài hòa giữa mục tiêu phát triển và bảo vệ, bảo tồn dựa trên điều tra đánh giá tiềm năng đất đai, khả năng cung ứng tự nhiên của hệ sinh thái. Điều chỉnh hệ thống phân loại đất đai, bổ sung chỉ tiêu quy hoạch đất đai phù hợp với thực tiễn sử dụng đất, theo không gian và chức năng sử dụng.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân trong chế định này của Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi), cần quy định rõ cơ chế để người dân tham gia và giám sát trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Theo đó, cá nhân, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng có thể trực tiếp thực hiện thông qua việc gửi văn bản kiến nghị, yêu cầu, tham gia ý kiến với cơ quan có thẩm quyền lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Hoặc có thể thực hiện thông qua cơ chế của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; thông qua các tổ chức được pháp luật quy định có chức năng đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

Hai là, sửa đổi các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Mở rộng đối tượng giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất.

Sửa đổi, bổ sung quy định của Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) để tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức sử dụng đất được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và pháp luật. Phù hợp với yêu cầu xây dựng và bảo vệ xã hội - giai cấp của Nhà nước và quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của giai cấp nông dân - lực lượng đông đảo nhất, nhưng cũng dễ rơi vào nhóm yếu thế khi có biến động kinh tế, Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bổ sung những quy định tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các tổ chức kinh tế nông nghiệp được linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên quỹ đất trồng lúa theo thị trường nhưng không làm thay đổi địa hình, kết cấu đất, làm thoái hóa, ô nhiễm đất để có thể chuyển đổi trồng lúa trở lại khi cần thiết.

Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cũng cần bổ sung quy định về tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường khi lựa chọn phương án quy hoạch sử dụng đất, dự án đầu tư có sử dụng đất, dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, dự án sử dụng đất do các cơ quan, đơn vị của nhà nước đang sử dụng, dự án lấn biển.

Sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn giản các thủ tục hành chính khi chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng sang mục đích khác, gắn với cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức.

Hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định chặt chẽ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất.

Cơ bản thực hiện hình thức cho thuê đất trả tiền hằng năm và quy định cụ thể các trường hợp trả tiền thuê đất một lần, phù hợp với tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định. Quy định điều kiện giao đất, cho thuê đất, hạn mức sử dụng đối với các tổ chức tôn giáo phù hợp với quỹ đất hiện có của địa phương.

Ba là, sửa đổi quy định về thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng. Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bổ sung, hoàn thiện quy định về các chính sách đồng bộ, công bằng trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất trên cơ sở đánh giá đầy đủ các tác động về kinh tế, xã hội, đảm bảo bồi thường đúng giá trị và bảo đảm sinh kế bền vững cho người có đất bị thu hồi, có chính sách về phúc lợi xã hội cho người không còn tuổi lao động và các đối tượng chính sách, yếu thế trong xã hội.

Luật cần quy định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng các trường hợp thu hồi đất dựa trên mục đích sử dụng đất và lợi ích quốc gia, công cộng. Bổ sung quy định việc thu hồi đất phát triển kinh tế - xã hội thông qua cơ chế Nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tạo quỹ đất sạch để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất (bao gồm cả vùng phụ cận mà Nhà nước đã đầu tư phát triển hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật).

Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần sửa đổi, bổ sung theo hướng đa dạng các hình thức bồi thường phù hợp với nhu cầu của người có đất thu hồi và điều kiện cụ thể của từng địa phương như bồi thường bằng tiền, bồi thường bằng đất khác mục đích thu hồi, bồi thường bằng nhà...; đối với các dự án phát triển đô thị, nhà ở (bao gồm cả đô thị và nông thôn). Quy định cơ chế hỗ trợ cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đối với các trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường.

Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bồi thường tại Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 theo hướng đa dạng hóa hình thức bồi thường đối với hộ gia đình, cá nhân, cụ thể:

Đối với hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất bị thu hồi hoặc bằng tiền, hoặc bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất bị thu hồi, hoặc nhà ở nếu người có đất thu hồi có nhu cầu và địa phương có điều kiện về quỹ đất, quỹ nhà ở nhằm tạo điều kiện cho địa phương linh hoạt trong việc thực hiện bồi thường đất, đặc biệt đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất khác phù hợp; đảm bảo quyền lợi cho người có đất thu hồi có thể nhận bồi thường bằng đất sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế gia đình, giúp đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng.

Bốn là, sửa đổi, bổ sung quy định về giá đất. Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bám sát quy định mới của Luật Giá để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong việc áp dụng các phương pháp tiên tiến trong định giá đất nhằm bảo vệ tốt nhất, hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực giá đất. Cần quy định rõ cơ chế để kiểm soát việc tổ chức thực hiện định giá và quản lý giá đất thống nhất từ trung ương tới địa phương thông qua hệ thống thông tin giá đất.

Phân cấp thẩm quyền quyết định giá đất phù hợp với thẩm quyền về giao đất, cho thuê đất. Bổ sung quy định về thành phần Hội đồng thẩm định giá đất để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng đất, của Nhà nước và của nhà đầu tư; quy định rõ điều kiện, trách nhiệm của tổ chức tư vấn xác định giá đất.

Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định việc bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại khi thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, đất nghĩa trang, nghĩa địa của tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo hướng giao Chính phủ quy định cách thức thực hiện bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại khi thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, đất nghĩa trang, nghĩa địa của tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai, tạo cơ sở pháp lý để tổ chức, thực hiện bồi thường về đất.

Năm là, sửa đổi quy định về tài chính đất đai. Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bổ sung quy định về đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính đất đai phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hài hòa giữa thu ngân sách với khuyến khích đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành, lĩnh vực, đặc thù của các vùng, miền.

Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành 6 nghị quyết chuyên đề mang tính chiến lược dài hạn về phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng kinh tế trọng điểm; trong đó có những nội dung mới, có tính mở cao để các địa phương chủ động trong việc đưa ra các chính sách ưu đãi phù hợp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Luật Đất đai (sửa đổi) cần bám sát tinh thần này để sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính đất đai phù hợp với định hướng của Đảng; cũng là tạo lập cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tài chính đất đai.

Thể chế hóa nội dung Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XIII theo hướng bổ sung quy định thành lập Quỹ hỗ trợ cho người bị hạn chế khả năng lao động (người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em thuộc đối tượng bảo trợ xã hội...) khi Nhà nước thu hồi đất để đảm bảo quyền lợi, tạo sinh kế bền vững cho người có đất thu hồi, đặc biệt là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

Sáu là, quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý, sử dụng đất đai. Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bổ sung quy định về quyền của Nhà nước trong việc quản lý, khai thác và sử dụng khoảng không; phần ngầm, chiều sâu trong lòng đất.

Bổ sung quyền trưng mua của Nhà nước trong trường hợp cần sử dụng đất, tài sản trên đất của người sử dụng đất vào mục đích lịch sử, văn hóa, đối ngoại... Hoàn thiện việc phân cấp trong quản lý đất đai, đồng thời quy định cơ chế kiểm soát, giám sát việc thực hiện, đảm bảo quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

Bổ sung quy định hoàn thiện hệ thống tổ chức ngành quản lý đất đai đáp ứng với nhiệm vụ được giao. Phù hợp với Chiến lược chuyển đổi số quốc gia và yêu cầu của chính phủ số, chính quyền số, công dân số, kinh tế số, xã hội số, Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần quy định đơn giản hóa hơn nữa các thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai, như thu hồi đất, xác định giá đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giao đất, cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giao dịch về đất đai của cá nhân, tổ chức. Từng bước xã hội hóa một số hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai.

Bảy là, sửa đổi quy định về xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai; đo đạc, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bổ sung quy định hệ thống thông tin đất đai được thiết kế tổng thể và xây dựng thành một hệ thống tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đáp ứng yêu cầu xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số.

Xây dựng hệ thống quy chuẩn quốc gia đảm bảo xây dựng hệ thống thông tin đất đai, quản lý thông tin địa chính, thông tin kinh tế, tài chính và giá đất, thông tin quy hoạch, kế hoạch và hiện trạng sử dụng đất hiện đại. Sửa đổi, bổ sung quy định về đo đạc, lập bản đồ địa chính nhằm tạo hành lang pháp lý ứng dụng công nghệ hiện đại trong đo đạc lập bản đồ địa chính, xây dựng bản đồ địa chính 3D, cấp giấy chứng nhận cho các công trình ngầm, trên không.

Tám là, sửa đổi quy định về quyền của người sử dụng đất. Tiếp tục hoàn thiện các chế định về quyền của người sử dụng đất và trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ các quyền của người sử dụng đất. Bổ sung các quy định về quyền có liên quan đến việc sử dụng đất như: quyền sử dụng không gian ngầm hoặc khoảng không trên mặt đất, quyền thông hành địa dịch, quyền sử dụng đất kết hợp đa mục đích, quyền được bồi thường khi bị hạn chế quyền do các công trình đầu tư của Nhà nước...

Sửa đổi quy định về quyền của đối tượng sử dụng đất trong trường hợp được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Bổ sung quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với chuyển nhượng dự án đầu tư. Bổ sung quy định cho người có đất góp quyền sử dụng, hợp lô thửa đất, tạo quỹ đất,... để chỉnh trang, phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn; quy định bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia góp quyền sử dụng đất.

Sửa đổi quy định về chế độ sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) cần bổ sung quy định chính sách phù hợp để giải quyết, hỗ trợ về đất ở, đất sản xuất cho các đối tượng chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; đất xây dựng các cơ sở thờ tự tôn giáo; chính sách bảo vệ, cải tạo, nâng cao chất lượng đất đai, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường sinh thái.

Bổ sung quy định chế độ quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế và chế độ sử dụng đối với một số loại đất khác. Cần bổ sung quy định về chế độ quản lý, sử dụng đất công trình ngầm và không gian trên không. Quy định quyền, nghĩa vụ và chính sách tài chính khi sử dụng đất công trình ngầm và không gian trên không. Bổ sung quy định về chế độ sử dụng đất đồng thời cho nhiều mục tiêu khác nhau, đất có nhiều chủ đồng sử dụng đất.

Chín là, tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi). Trong đó:

1) Tăng cường cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước về đất đai;

2) Triển khai, hoàn thành việc lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch đất đai;

3) Chấn chỉnh hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất;

4) Chấn chỉnh hoạt động thu hồi đất;

5) Tăng cường kiểm soát quyền lực gắn với xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm trật tự quản lý nhà nước về đất đai;

6) Kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức và nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về đất đai;

7) Hoàn thiện phân cấp quản lý nhà nước về đất đai;

8) Tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về đất đai.

Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đất đai đến từng cá nhân, tổ chức, đi đôi với thiết lập cơ chế hỗ trợ pháp lý cho từng cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng đất để họ bảo vệ được quyền lợi của mình và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng đất. Mở các kênh truyền tải thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước về đất đai đến từng cá nhân, tổ chức sử dụng đất.

Tăng cường năng lực của cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai để đảm bảo mọi hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức đều phải được xử lý nghiêm minh.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thi hành Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi) và xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai, đặc biệt là các dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Triển khai xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.

Tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo để đảm bảo an ninh chính trị. Chuyển giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai sang hệ thống cơ quan tư pháp để đảm bảo khách quan, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan đến quản lý, sử dụng đất tiếp tục tổ chức việc tiếp nhận thông tin phản ánh vi phạm và công khai các vi phạm theo quy định của pháp luật.

Chú thích:

1. Cả nước đã cấp 41 triệu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tài liệu tham khảo

1.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

2.  Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

3.  Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Báo cáo kết quả lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), số 648 /BC-MTTW-BTT ngày 20/3/2023.

4.  Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Văn bản phản biện xã hội đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), số 4535/MTTW-BTT ngày 23/9/2022.

Phạm Thị Hồng - Tiến sĩ, Phó Trưởng Ban Dân chủ - Pháp luật,

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam