Phát triển kinh tế vùng trung du và miền núi Bắc bộ - Sức bật mới cho khu vực

(Mặt trận) - Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn. Phát triển vùng là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng trong quá trình phát triển đất nước nhằm khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế của các vùng và địa phương trong cả nước để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Phú Yên: Đẩy mạnh hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở, đất ở, đất sản xuất

Đức Cơ nỗ lực giúp người nghèo an cư

Hiệu quả từ chương trình hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho người dân vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ninh

Xã Tân Lập, huyện Mộc Châu (Sơn La) triển khai nhiều mô hình kinh tế như trồng chanh leo, mận hậu, chè, giúp nhiều hộ thoát nghèo, từng bước vươn lên làm giàu. Ảnh: Hữu Quyết/TTXVN 

Trên cơ sở đánh giá toàn diện, sâu sắc tình hình và kết quả hơn 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX, ngày 10/2/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Nghị quyết số 11-NQ/TW thể hiện rất rõ tinh thần đổi mới, quyết tâm rất cao của Đảng để tạo sự chuyển biến có tính đột phá trong phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc bộ - nơi "địa đầu,” "phên giậu,” "lá phổi" của Tổ quốc.

Khơi dậy tiềm năng

Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ bao gồm 14 tỉnh trực tiếp nằm trong vùng và 21 huyện, 1 thị xã phía Tây của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Thượng Lào, phía Đông giáp Đồng bằng sông Hồng, phía Nam giáp Bắc Trung bộ với tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước. Đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước, là cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia.

Đồng thời, cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp cùng nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái.

Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng, ngày 1/7/2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW và Bộ Chính trị khóa XI đã tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ban hành Kết luận số 26-KL/TW, ngày 2/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020.

Sau khi Nghị quyết số 37-NQ/TW ra đời, Chính phủ cũng đã ban hành hàng loạt các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng này như: Quyết định 186/2001-QĐ-TTg về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc; Quyết định 120/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt - Trung đến 2010, Chương trình 134, 30a; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới…

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cũng đã chủ động xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách giúp bổ sung, khơi thông các nguồn lực. Nhiều địa phương đã tận dụng, phát huy tối đa cơ chế, chính sách và hỗ trợ của Trung ương qua việc triển khai Nghị quyết để phát huy lợi thế mang lại hiệu quả cao trong phát triển kinh tế - xã hội.

Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân năm trong giai đoạn 2011 - 2020 của vùng đạt 7,96%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp. Các hoạt động liên kết của vùng được coi trọng gắn với đầu tư phát triển, từng bước hình thành và phát triển hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, gắn kết các địa phương, phát triển khu kinh tế cửa khẩu và các hình thức hợp tác xuyên biên giới.

Nhiều địa phương đã khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế phát triển bứt phá, tạo nên những điểm sáng trong phát triển công nghiệp, nông nghiệp như: Bắc Giang, Thái Nguyên, Sơn La, Lào Cai... Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của vùng cũng từng bước được đầu tư mới và hình thành một số tuyến đường cao tốc kết nối với Thủ đô Hà Nội, cải thiện liên kết nội vùng, hệ thống cảng biển khu vực phía Bắc, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đơn cử sau khi tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai đi vào hoạt động, tỉnh Thái Nguyên ngày càng thu hút được nhiều Tập đoàn lớn trong và ngoài nước như: Tập đoàn Samsung, Sunny Optech... Riêng năm 2021, Thái Nguyên đã cấp mới và điều chỉnh tăng vốn cho 27 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn hơn 1 tỷ USD, nâng tổng số dự án FDI còn hiệu lực tại Thái Nguyên lên tới 170 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 9,67 tỷ USD. Cùng với Thái Nguyên, tỉnh Bắc Giang tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, công nghiệp, đô thị, dịch vụ.

Ông Dương Văn Thái, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang cho biết, nhờ chủ trương đúng đắn, sự tập trung, kiên trì, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, tỉnh Bắc Giang đã đạt được những kết quả rất tích cực về thu hút đầu tư, trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tỉnh có hơn 1.800 dự án, tổng số vốn xấp xỉ 11 tỷ USD. Liên tục những năm gần đây, Bắc Giang luôn ở trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư FDI. Năm 2021, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức song tốc độ tăng GRDP của tỉnh vẫn đạt 7,82%.

Về lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên cơ sở đánh giá lợi thế và nhu cầu thị trường, trong giai đoạn 2017 - 2020, các tỉnh trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đã chuyển đổi khoảng 54 nghìn ha đất gieo trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây hàng năm cho giá trị kinh tế cao hơn từ 3 - 8 lần. Đến nay, đã hình thành được một số vùng lúa đặc sản theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh, có thương hiệu sản phẩm, có thể kể đến như: nếp Tú Lệ, gạo Séng Cù, tẻ nương Mộc Châu, nếp Cẩm…

Giai đoạn 2016 - 2020, diện tích cây ăn quả của vùng đã tăng từ 185 nghìn ha lên 250 nghìn ha và trở thành vùng cây ăn quả lớn thứ 2 trên cả nước. Một số loại cây ăn quả đã được xây dựng thành vùng hàng hóa tập trung quy mô lớn như: vải thiều, nhãn, cam, bưởi, xoài... Bên cạnh việc chú trọng sản xuất, trong vùng còn quan tâm đến đầu tư công nghệ chế biến để nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm.

Thống nhất nhận thức chung

Theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù kinh tế của vùng có sự khởi sắc nhưng thực tế khu vực này vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước. Quy mô kinh tế vùng nhỏ, cơ cấu kinh tế chưa hiện đại, chuyển dịch chậm; phát triển của các địa phương trong vùng chưa đồng đều, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia công... Nhiều địa phương trong vùng vẫn lúng túng trong chọn hướng phát triển đột phá và phát huy thế mạnh liên kết. Để tiếp tục đưa các tỉnh trong vùng phát triển nhanh, bền vững, đòi hỏi sự năng động, sáng tạo của cấp ủy, chính quyền mỗi địa phương cùng với những chủ trương, chính sách, cơ chế phù hợp nhằm tạo sức bật mới toàn diện cho toàn khu vực.

Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Trung du và miền núi Bắc bộ vẫn là "vùng trũng" trong phát triển và là "lõi nghèo" của cả nước, liên kết vùng còn yếu. Khoảng cách về trình độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong nội vùng so với bình quân chung của cả nước tiếp tục gia tăng. Quy mô kinh tế còn nhỏ; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chất lượng chưa cao. Cơ cấu nội ngành và giữa các ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm. Các địa phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân sách. Hoạt động hợp tác, kết nối với các địa phương ngoài vùng, với các tỉnh của Lào và Trung Quốc còn khiêm tốn…

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, để phát huy tiềm năng, lợi thế của mỗi vùng và cả nước, bên cạnh những chủ trương, chính sách phát triển chung cho cả nước thì phải có các chủ trương, chính sách phát triển cụ thể, sát hợp, phù hợp với từng vùng; khắc phục tình trạng tỉnh nào cũng xin cơ chế, chính sách đặc thù, ưu đãi riêng, không phù hợp với những nguyên tắc chung cơ bản của kinh tế thị trường là thống nhất và bình đẳng.

Nhằm tổ chức thực hiện tốt, có kết quả thiết thực Nghị quyết của Bộ Chính trị gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, phải quán triệt thật đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm; tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành, người dân và cộng đồng các doanh nghiệp về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng. Đồng thời, đổi mới tư duy phát triển, nhất là về liên kết vùng, tiểu vùng; cơ chế, chính sách đặc thù; phân bổ nguồn lực; nguồn nhân lực và tiềm năng, lợi thế để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, các tiểu vùng và từng tỉnh trong vùng, tiểu vùng; giải quyết các vấn đề trọng điểm quốc gia tại vùng; các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tiểu vùng.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, một trong những nguyên nhân liên kết vùng thời gian qua chưa đạt được hiệu quả là do thể chế về tổ chức cấp hành chính chưa có chính quyền vùng, ngân sách vùng, cơ chế liên kết điều phối vùng. Từ đó, dẫn đến một số địa phương gặp phải vấn đề “xung đột lợi ích”; chưa xem xét việc phối hợp trong lợi ích tổng thể của cả vùng, “mạnh ai nấy làm” nên xảy ra tình trạng không bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau phát triển mà còn làm giảm động lực tăng trưởng.

Vấn đề định hướng và tổ chức không gian phát triển là vấn đề vượt ra ngoài ranh giới hành chính một tỉnh, cần tiếp cận và giải quyết theo vùng thông qua hành động tập thể. Do đó, 14 tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ cần có sự thống nhất nhận thức chung, mục tiêu chung để từ đó chủ động trong hợp tác, liên kết với nhau theo phương châm “muốn đi nhanh và đi xa thì hãy đi cùng nhau”. Đó cũng là xu thế liên kết, chia sẻ hợp tác của kinh tế thế giới ngày nay.

Còn theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển nông nghiệp vùng Trung du và miền núi Bắc bộ theo hướng hàng hóa, sản xuất an toàn, sạch, hữu cơ, xanh, đặc sản, cần đến nguồn lực con người – sự tham gia tích cực của người nông dân, của đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư với vai trò chủ thể. Chính yếu tố con người mới thật sự là động lực, xung lực tạo bước đột phá mạnh mẽ cho khu vực còn nhiều gian khó, điều kiện còn hạn chế này. Vì vậy, cần có những kế hoạch cập nhật kiến thức, hướng dẫn người dân thông qua đội ngũ khuyến nông cơ sở, ngay tại bản làng.

Song song đó, phát huy vai trò đầu tàu của những nhân tố năng động như doanh nghiệp khởi nghiệp quy mô vừa và nhỏ để dẫn dắt tiếp cận các mô hình mới. Đồng thời, khuyến khích sự thay đổi tích cực của người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư trong cách nghĩ, cách làm, từ thói quen, tập quán sinh hoạt hàng ngày cho tới cách thức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp ở vùng Trung du và miền núi Bắc bộ.

Mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành ký Quyết định số 495/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (quy hoạch). Nội dung quy hoạch đảm bảo tuân thủ quy định của Luật Quy hoạch và Nghị định số 37/2019/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch; trong đó, phân tích, đánh giá thực trạng các yếu tố, điều kiện tự nhiên, nguồn lực đặc thù của vùng như: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của vùng; hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội; tài nguyên thiên nhiên, môi trường; hệ thống đô thị, nông thôn; kết cấu hạ tầng; liên kết nội vùng, liên kết vùng với khu vực và quốc tế; các nguồn lực của vùng đã và đang được khai thác, các tiềm năng chưa được khai thác; các nguy cơ, tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu trên địa bàn vùng; vị thế, vai trò của vùng đối với quốc gia; các vấn đề trọng tâm cần giải quyết trong quy hoạch vùng.

Đồng thời, nội dung quy hoạch nêu rõ quan điểm, mục tiêu phát triển như: quan điểm về phát triển vùng, tổ chức không gian phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên lãnh thổ vùng trong thời kỳ quy hoạch; mục tiêu tổng quát phát triển vùng trong thời kỳ quy hoạch 10 năm, tầm nhìn từ 20 - 30 năm; mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường gắn với tổ chức không gian phát triển vùng trong thời kỳ quy hoạch.

Do đó, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực, quyết tâm hành động của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết đồng lòng của nhân dân, việc đưa các Nghị quyết vào thực tế cuộc sống chắc chắn sẽ giúp vùng Trung du và miền núi Bắc bộ vươn lên mạnh mẽ. Từ đó, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và phát triển bền vững.