Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cơ sở quan trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

(Mặt trận) - Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn hết lòng, hết sức phụng sự Nhân dân, vì hạnh phúc của Nhân dân, tạo mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với Dân ngày càng gắn bó. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng trải qua gần 40 năm, đã tạo ra những chuyển biến mang tính đột phá trong tất cả các lĩnh vực, nhất là sự đổi mới tư duy, nhận thức lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở Việt Nam, dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - Nhân tố quyết định Đại thắng mùa xuân năm 1975

Hiệp định Geneva 1954: Một mốc son lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Một biểu tượng chói lọi của văn hóa Việt Nam

Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Lễ công bố Sách vàng Sáng tạo Việt Nam năm 2023. 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”1 và “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”2. Trong suốt quá hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Theo Người, quyền dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.

Ở nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa động lực của sự phát triển đất nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số Nhân dân, gắn với quyền làm chủ của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của mỗi công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực; hạt nhân là quyền con người, quyền công dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được tổ chức chặt chẽ, có sự phân công, phối hợp thực hiện và kiểm soát giữa các cơ quan, đơn vị, các tổ chức cấu thành trong hệ thống chính trị.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được vận hành dưới sự giám sát chặt chẽ của mọi tầng lớp nhân dân, nhằm đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định: Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực”3.

Điều 3 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Kế thừa và phát triển những quan điểm đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện nghiêm túc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4.

Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng trải qua gần 40 năm, đã tạo ra những chuyển biến đột phá lớn trong tất cả các lĩnh vực, nhất là sự đổi mới tư duy, nhận thức lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước đã có nhiều đổi mới trong việc đề ra chủ trương, chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong xã hội trên cơ sở phát huy quyền dân chủ ở cơ sở, từng bước đáp ứng yêu cầu của Nhân dân nhằm động viên toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như:

Về chính trị, đã phát huy vai trò của Nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Nhân dân tin tưởng ủy thác cho Đảng trọng trách lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước phát huy quyền làm chủ của Nhân dân để Nhà nước thực sự của Dân, do Dân và vì Dân, đảm bảo lợi ích chính đáng, quyền làm chủ của Nhân dân. Đảng, Nhà nước đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò quản lý và làm trong sạch bộ máy Nhà nước; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong việc xây dựng chính quyền. Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm hơn đến việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong kinh tế, tôn trọng những ý kiến khác nhau, miễn là không trái với lợi ích chung.

Các phương tiện thông tin đại chúng đã tích cực phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của Nhân dân. Sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp... trong Mặt trận, các đoàn thể có nhiều tiến bộ đã tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nay là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã và đang thu được những kết quả thiết thực. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên; không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao vai trò, uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội của mình trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực phát huy dân chủ; vừa vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, các đoàn viên, hội viên của mình thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, vừa tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Động viên đội ngũ nhân sĩ, trí thức, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các đề án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Tập hợp kịp thời các đề xuất, kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên, của cử tri để phản ánh cho Đảng, Nhà nước xem xét lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Tham gia việc phát hiện, lựa chọn, giới thiệu những người đủ đức, đủ tài, thật sự xứng đáng làm đại biểu nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Về kinh tế, chính sách kinh tế nhiều thành phần được toàn dân đồng tình hưởng ứng, đã có tác dụng tích cực phát triển các loại hình doanh nghiệp thu hút các nguồn lực cho phát triển sản xuất và giải quyết việc làm cho hàng triệu người. Các chính sách, pháp luật hiện hành về kinh tế từng bước đổi mới phù hợp với sự phát triển của các thành phần kinh tế trong quá trình hội nhập đã và đang phát huy được tiềm năng trong dân, giảm bớt khó khăn trong sản xuất và đời sống nhân dân, bước đầu có tác dụng tốt đối với khối đoàn kết toàn dân.

Về lĩnh vực văn hoá - xã hội, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước liên quan đến các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội… đã có nhiều đổi mới và đã khơi dậy tinh thần yêu nước, đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân. Các chính sách về giáo dục, y tế đã có nhiều đổi mới, việc phổ cập giáo dục, xoá nạn mù chữ và chăm sóc sức khoẻ của Nhân dân có những tiến bộ. Các chính sách về an sinh xã hội như: xoá đói giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, phòng chống tệ nạn xã hội, dân số kế hoạch hoá gia đình... đã có nhiều đổi mới và được Nhân dân tự nguyện tham gia. Việc thực hiện chính sách “đền ơn, đáp nghĩa” gần đây đã được Nhà nước, các cấp, các ngành coi trọng, động viên được những gia đình có công với nước. Công tác tập hợp các tầng lớp nhân dân bằng các tổ chức, các phong trào, các cuộc vận động thi đua yêu nước đã có bước phát triển mới thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Các tổ chức thành viên của Mặt trận ngày càng đông đảo hơn, nhất là các hội quần chúng đã ngày càng phát triển rộng rãi, đa dạng, có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, hoạt động thiết thực và bổ ích, có tác dụng tập hợp, động viên quần chúng, góp phần tăng cường đoàn kết trong Nhân dân, phục vụ cho việc thực hiện chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.

Các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc, các ngành, địa phương đề xướng đã được đông đảo Nhân dân tự nguyện tham gia, thu hút nhiều đối tượng, mang tính toàn dân, toàn diện, thiết thực, bền vững với quy mô, mức độ khác nhau nhưng các phong trào, các cuộc vận động đều phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nhằm tập hợp, động viên Nhân dân tăng cường đoàn kết, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau trong khó khăn, hoạn nạn giải quyết những vấn đề thiết thực của cuộc sống.

Điển hình như thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, vận động “Quỹ vì người nghèo” do Mặt trận khởi xướng và chủ trì là những phong trào có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội rộng lớn với phương châm “lấy sức dân để xây dựng cuộc sống cho dân” được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia tích cực. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo ủng hộ đường lối đổi mới, tham gia có hiệu quả các phong trào thi đua lao động sản xuất, xoá đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa...

Công tác đối ngoại của Nhà nước trong những năm qua đã tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước, nâng cao uy tín của nước ta trên thế giới, góp phần tạo nên môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, thu hút được nhiều nguồn lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính sách đối với người Việt Nam nước ngoài đã có nhiều đổi mới nhằm tập hợp, đoàn kết đồng bào hướng về Tổ quốc đóng góp công sức, trí tuệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng bào ta ở nước ngoài đồng tình ủng hộ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước nên đã tích cực đóng góp nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Những thành tựu đạt được có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước đột phá trong sự đổi mới nhận thức, tư duy về phát huy quyền là chủ của Nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nên đã phát huy được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Nhờ đó, khối liên minh công - nông - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết tiếp tục được củng cố ngày càng vững chắc, tin tưởng và đi theo đường lối của Đảng, thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là bài học kinh nghiệm quý báu được Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tổng kết, đánh giá: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”. Đảng ta chỉ rõ cần phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, Đảng ta đã chỉ ra những hạn chế trong thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cụ thể là: “Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa thực sự được phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của Nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân”5.

Đồng thời gần đây nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” đã nêu những tồn tại, hạn chế trong xây dựng khối đại đoàn kết: “Việc cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong Nhân dân. Một số chính sách chưa sát với thực tiễn, còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện.

Đời sống của một bộ phận Nhân dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn khó khăn; phân hoá giàu - nghèo và chênh lệch giữa các vùng, miền còn lớn. Việc bảo đảm cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" có mặt còn hạn chế; quyền làm chủ của Nhân dân có lúc, có nơi chưa được bảo đảm. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các hội quần chúng, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu”.

Nghị quyết số 43-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chủ yếu là do: “Nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện chưa nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu gương mẫu, chưa thực sự gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe, kịp thời giải quyết những kiến nghị liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Nghiên cứu lý luận trên một số mặt chưa theo kịp với thực tiễn phân hoá, biến đổi của các giai tầng xã hội, chưa làm rõ mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới. Sự chống phá ngày càng tinh vi, phức tạp của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Nhân dân với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và tập trung. Tập trung không đối lập và tách rời dân chủ. Tập trung dân chủ là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung. Do đó, độc đoán, chuyên quyền là hoàn toàn xa lạ với nguyên tắc này. Tập thể lãnh đạo bảo đảm cho việc thực thi dân chủ nhưng tập thể lãnh đạo không phải là dựa dẫm vào nhau, mà là sử dụng trí tuệ tập thể. Vì sao cần phải tập thể lãnh đạo? Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc một số mặt của một vấn đề. Vì vậy cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.

Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”. Do vậy, “nếu lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”. Tuy nhiên, tập thể lãnh đạo phải luôn đi đôi cùng cá nhân phụ trách, bởi, như Bác dạy: “việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”. “Coi trọng và thực hành dân chủ cũng là thể hiện sự coi trọng dân và vì dân của Đảng. Vì nhờ có dân chủ nên đời sống chính trị trong Đảng lành mạnh, trí tuệ của Đảng không ngừng được phát huy, mối quan hệ giữa Đảng với dân ngày càng gắn bó và không ngừng được mở rộng. Từ đó, uy tín của Đảng trong dân ngày càng to lớn, sâu rộng. Dân càng tin yêu Đảng càng tích cực đóng góp những ý kiến tâm huyết để Đảng có những quyết sách đúng đắn. Như vậy dân chủ trong xã hội cũng sẽ phát triển”.

Để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém, tăng cường hơn nữa việc thực hiện dân chủ trong xã hội, thì trước hết phải đảm bảo dân chủ trong Đảng. Trong Đảng phải tiến hành dân chủ rộng rãi “phải thực sự mở rộng dân chủ để đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”. Đòi hỏi mỗi đảng viên phải nói và làm đúng đường lối, nghị quyết của Đảng; phát huy dân chủ trong Đảng, phát triển dân chủ trong xã hội sẽ làm cho người dân càng gần gũi với Đảng bởi họ thấy quyền làm chủ và lợi ích thiết thân của mình được bảo đảm, từ đó mọi đường lối, chính sách của Đảng sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống.

Để thực sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát triển dân chủ trong xã hội nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc nhằm đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân để Mặt trận thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của chính quyền các cấp xung quanh việc giải quyết kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của người dân. Sự tôn trọng ý kiến của Nhân dân chính là phát huy dân chủ, nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận trong tiến trình đổi mới phương thức hoạt động hiện nay nhằm củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 43-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.

Chú thích:

1.   Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 434.

2.  Hồ Chí Minh: Sđd, tập 15, tr. 325.

3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85.

4.  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 96, 173, 181, 174, 71.

5.   Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 72, 27, 28, 88, 89.

Nguyễn Văn Thịnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy

cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam