(Mặt trận) - Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi của văn hóa Việt Nam. Qua hàng ngàn năm cư trú, cộng đồng người Việt đã tạo nên đời sống văn hóa tinh thần phong phú, độc đáo. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống văn hóa tinh thần đó là giá trị trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Trong xã hội hiện đại, tưởng như đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng không còn cơ sở tồn tại, vì làng xã ở nông thôn có những biến đổi sâu sắc. Song, điều đó đã không xảy ra và thậm chí có chiều ngược lại, nó vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Phải chăng đó là giá trị vĩnh hằng trong đời sống tinh thần người Việt.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là một tín ngưỡng khá phổ biến ở làng xã của người Việt. “Người Việt phổ biến nhất, nổi bật nhất là thờ thần ở làng, không làng nào là không có đình, đền, miếu thờ thần”1. Bởi thế, “thần Thành hoàng là biểu tượng thiêng liêng nhất của cả làng, ở mỗi làng, khắp các làng xưa kia”2, tín ngưỡng thờ Thành hoàng là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.
“Văn hoá Việt Nam xét về bản chất là một nền văn hoá xóm làng”3, làng Việt Nam từ lâu đã là nơi sinh ra và bảo lưu văn hoá làng - văn hoá dân tộc. Cho đến nay, văn hoá làng vẫn tồn tại với sự ngưng kết đậm đặc trong lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn hoá dân gian… Làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ là nơi lưu truyền các giá trị văn hóa làng, thu giữ vào nó nhiều loại hình tôn giáo và văn hóa truyền thống, trong đó có tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Ở các làng đồng bằng Bắc bộ, Thành hoàng làng là vị thần bản mệnh, là chỗ dựa tâm linh cho cả cộng đồng làng.
Nghi lễ thực hành trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ
Đình là nơi thờ Thành hoàng làng. Đình vừa là không gian văn hóa, vừa là không gian tôn giáo, tín ngưỡng, đồng thời là đơn vị cơ quan hành chính làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ. Đình làng là không gian đặc biệt của người Việt “được mọi người nhìn nhận với tính chất đặc biệt đa dụng cả về tôn giáo lẫn xã hội, hành pháp, tư pháp, lập pháp, du hý, kinh tế, quan hôn, tang tế... chỉ Việt Nam mới có"4. Việc thờ cúng Thành hoàng được diễn ra thường xuyên thông qua việc thắp đèn, hương hằng ngày. Ngoài ra, việc cúng lễ được thực hiện vào các ngày Sóc, Vọng hằng tháng, trong những ngày tiết nạp bốn mùa, lễ giao thừa, Tết Nguyên đán, hay những ngày trong làng có ma chay, cưới hỏi, người đỗ đạt, xây dựng công trình chung… dân làng vẫn ra đình cúng lễ để báo cáo, tạ ơn hay kêu cầu sự chở che của Thành hoàng cho cuộc sống của cá nhân, gia đình và cả làng được bình yên và phồn thịnh. Đặc biệt, vào ngày thần húy và thần đản (tức là ngày mất và ngày sinh của Thành hoàng làng), hay ngày nhập tịch của làng, người dân trong làng tổ chức lễ tế rất lớn. “Tế thần là cuộc diễu lễ, dâng lễ vật, đọc chúc văn tỏ kính ý biết ơn thần, cầu xin thần ban tốt lành mới. Tế thần là sự giao cảm giữa người và thần là hoạt động thiêng liêng nhất mở đầu lễ hội”5.
Lễ hội làng được coi là ngày giỗ của cả làng, hay còn gọi là ngày Thần kỵ. Nghi lễ tế Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ được quy định rất chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ việc chọn người chủ tế, bồi tế, các người xướng, y phục, các động tác cũng được quy định rõ ràng trong điển lễ của làng và người thực hiện lễ tế phải thực hiện các động tác đúng như quy định. Làng cũng quy định trong cuộc tế, bắt đầu từ tiết mục "Khởi chinh cổ" cho đến "Tế tất" có bao nhiêu động tác, vị đông xướng câu gì, vị chủ tế xướng câu gì, mỗi chức danh trong cuộc tế đứng ở đâu... Tất cả các điều này đều được ghi chép tỷ mỉ trong điển lễcủa làng. Địa điểm diễn ra các cuộc rước, tế và các trò diễn là đình và đền (hoặc miếu) của làng. Đồng thời với tế và lễ, người dân còn tổ chức rước Thành hoàng, với ý muốn đưa thần đi thăm thú làng quê, khoe với thần những công việc tốt đã làm được. Trong buổi rước, người dân còn diễn lại những công trạng của Thành hoành làng đã làm đối với làng. Đó chính là thế hiện sự biết ơn sâu sắc, lòng tôn kính và sự nhớ nhung khôn nguôi với người có công với làng, với nước - một nét đẹp trong đạo Hiếu của người Việt ở các làng đồng bằng Bắc bộ.
Trong lễ tế Thành hoàng làng, phần lễ và phần hội là một tổng thể. Lễ là phần tôn giáo, biểu hiện những giá trị đạo đức sâu lắng nhất của người dân mỗi làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ. Phần lễ gồm một hệ thống hành vi biểu hiện sự tôn kính, biết ơn, sự mong cầu của người dân đối với Thành hoàng làng. Điều đó được thể hiện trong văn tế, văn tế nhắc đến công trạng của các vị thần được thờ cúng tại đình, sắc phong của các vị Thành hoàng. Văn tế của người Việt được dùng để giao cảm với thần linh, chủ yếu cầu xin thần linh ban phúc lành cho dân làng. Trong lễ hội cổ truyền của người Việt, văn tế được viết bằng chữ Hán. Hiện nay, văn tế của nhiều làng người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ viết bằng chữ Quốc ngữ. Sau nghi lễ rước và tế Thành hoàng là phần hội với các cuộc thi, trò diễn, trò chơi dân gian, hội thi nấu ăn. Các cuộc thi, trò chơi dân gian trong lễ hội bao giờ cũng có nội dung gắn với lịch sử của làng, mô tả lại sự tích hay chiến tích của Thành hoàng, ca ngợi vẻ đẹp của làng…
Giá trị của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ
Thứ nhất, ý thức về lòng biết ơn những người có công với làng xã
Thành hoàng là người có công với dân làng như: lập làng, lập nghề, dạy học, đánh giặc, cứu người... Cũng giống như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Thành hoàng của người Việt vừa là tín ngưỡng, vừa là đạo lý sống của hậu thế đối với bậc tiền bối có công với làng xóm, đất nước. Nếu thờ cúng tổ tiên là đạo lý thể hiện ý thức hướng về nguồn cội của gia đình, dòng họ, thì thờ cúng Thành hoàng làng cũng là sự tôn vinh các bậc tiền bối ở cấp độ làng xã. Làng nào cũng thờ Thành hoàng, mỗi Thành hoàng có nguồn gốc, công trạng khác nhau “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Vì thế, làng không thể thiếu một biểu tượng thiêng liêng, vị thần hộ mệnh để phát tín hiệu tập hợp, củng cố, bảo vệ phát triển cộng đồng. Việc thờ cúng đó được xuất phát từ sự biết ơn, sự ghi nhớ công ơn của dân làng với người có công với làng.
Tuy nhiên, có lẽ nét khác biệt giữa các làng chính là thờ các vị thần riêng của làng mình, những vị thần đó vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng với từng làng, “người dân trong làng cùng nhau tự phong, tự thờ vị Thành hoàng riêng của mình như vị thần bản mệnh, chủ yếu đảm bảo mưa thuận gió hòa, đem lại sự bình yên cho cộng đồng”6.
Thứ hai, ý thức giữ gìn luật lệ, lề lối gia phong của làng xã
Mỗi làng xã cổ truyền Việt Nam đều có phong tục tập quán riêng biệt, định hình thành tục lệ làng xã. Trong tâm thức người Việt ở đồng bằng Bắc bộ, Thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi, nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi. Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần, mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho nên, “sự thờ phụng Thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng”7.
Thờ phụng Thành hoàng là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất lề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, mỗi làng khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng Thành hoàng để xin phép trước. “Dường như sự ngưỡng mộ Thành hoàng của người dân không kém gì sự ngưỡng mộ đối với tổ tiên của họ, ở cấp độ cao hơn Tổ nhà, Tổ họ vì đây là Tổ làng”8. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng qua đó nhắc nhở con người phải yêu quý cộng đồng dân tộc, đặc biệt là cộng đồng làng xã, kéo người dân quay lại mối quan hệ hàng xóm láng giềng theo kiểu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Thờ Thành hoàng làng thực chất là nét văn hoá đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng, sự giao lưu văn hoá giữa các làng xóm với nhau; là nơi để lưu giữ những phong tục, luật lệ của mỗi làng... đó là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể.
Thứ ba, ý thức đoàn kết, cố kết cộng đồng làng xã
Tín ngưỡng Thành hoàng đóng vai trò liên kết cộng đồng làng xã, là nơi quy tụ tâm linh cho cư dân. Thành hoàng chứng kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những người trung hiếu, hiền lành, giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân. Có tai biến, người ta thường đến lễ bái cầu xin thần che trở. Có việc oan ức, người ta thường lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ hóa lành, giải oan cho người đó. Mọi người trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ luôn tâm niệm rằng thần luôn giám sát những hoạt động của từng thành viên trong cộng đồng. Nhà nước phong kiến Việt Nam chọn lọc và phong sắc cho Thành hoàng làng, nhằm mục đích đoàn kết và động viên toàn bộ sức mạnh của cộng đồng làng, xã và dân tộc thành một khối, đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội đến cơ sở xã hội. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng chính là nơi “nương náu” của văn hóa dân tộc. Từ đây, mỗi người cảm thấy rõ nhu cầu ngưỡng vọng tâm linh, nhu cầu không thể sống một mình mà cần có thêm những người khác nữa. Phải sống giữa cộng đồng, gắn kết với cộng đồng làng, hay theo như lời người xưa, đó chính là cái lẽ “nhân quần”. Nếu như sự thờ cúng tổ tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình thì sự thờ cúng thần Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng đồng làng, xã.
Người dân Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, suốt chiều dài lịch sử ấy, người dân phải đoàn kết nhau lại, ý thức cố kết cộng đồng được hình thành và phát triển để chống lại thiên tai và giặc giã. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ biểu hiện đạo Hiếu, sự biết ơn và mong muốn được đền đáp công ơn của thế hệ sau với thế hệ trước, sự đền đáp đó được lưu truyền từ đời này sang đời khác, củng cố và duy trì bền vững. Đạo Hiếu có vai trò trung gian, điều chỉnh sự tồn tại, hoạt động trong sinh hoạt tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Đạo Hiếu được kết tinh từ văn hóa, trở thành triết lý sống của người Việt, dạy con người sống hướng thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên và những người có công với quốc gia dân tộc. Đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đang tồn tại và phát triển cùng với lịch sử dân tộc, thấm dần vào các thế hệ người Việt Nam. Trải qua thời gian, triết lý về lòng biết ơn và đền ơn của đạo Hiếu không thay đổi, sẽ mãi là giá trị vĩnh hằng, khẳng định sự trường tồn của dân tộc, tạo ra sức mạnh văn hóa trong hội nhập và phát triển.
Trần Đăng Sinh*, Nguyễn Thị Phương Hà**
PGS.TS, Trường ĐHSP Hà Nội
ThS, UBTƯ MTTQ Việt Nam
Chú thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.86.
2. Đại Việt sử ký toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.97.
3. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.18.
4. Trần Đăng Sinh, Chủ biên, (2017), Đạo lý uống nước nhớ nguồn - cơ sở triết học và giá trị trong lịch sử dân tộc, Nxb. Giáo dục Hà Nội tr.239.
5. Đại Việt sử ký toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.239.
6. Trần Đăng Sinh, Chủ biên, (2017), Đạo lý uống nước nhớ nguồn - cơ sở triết học và giá trị trong lịch sử dân tộc, Nxb. Giáo dục Hà Nội, tr.60.
7,8. Nguyễn Thị Thọ (Chủ biên) (2017), Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.95.