(Mặt trận) - Quận Nam Từ Liêm được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27/12/2013 về việc điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Từ Liêm cũ. Là một quận có tốc độ đô thị hóa nhanh, thu ngân sách hàng năm lớn (năm 2016 thu khoảng 6.000 tỷ; năm 2017 dự kiến thu khoảng 9.000 tỷ). Vì vậy, quận rất chú trọng công tác an sinh xã hội, đặc biệt là quan tâm sát sao đến công tác giảm nghèo bền vững trên địa bàn.
Quận Nam Từ Liêm có quy mô dân số khoảng 23 vạn dân, trong đó, số người trong độ tuổi lao động khoảng 157.130 người, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động khá cao, chiếm khoảng 73% dân số. Số lao động tham gia trong nền kinh tế quốc dân khoảng 103.000 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 59,8%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp hiện còn 6,7%. Tỷ lệ hộ nghèo đến đầu năm 2014 là 1,17% (1.086 hộ nghèo). Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành kinh tế ước đạt 16,2%/năm, với cơ cấu thương mại dịch vụ (58,8%), công nghiệp, xây dựng (41%), nông nghiệp (0,2%). Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 59,9%. Tỷ lệ lao động có việc làm: 75%.
Mặc dù quận có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi: Là một trong những quận nằm trong đô thị trung tâm của Thủ đô, trên địa bàn quận có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng của Trung ương, Thành phố chạy qua: Quốc lộ 32, Đại lộ Thăng Long, đường Vành đai 3, Tỉnh lộ 70, 72…; Khu Liên hợp Thể thao Quốc gia, Trung tâm Hội nghị Quốc gia; trụ sở của các cơ quan Trung ương: Bộ Ngoại giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường; các trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp: The Manor, The Garden, Keangnam, Khách sạn Crowne, Khách sạn Marriott; các trường đại học, bệnh viện lớn: Đại học Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ; Bệnh viện Thể thao…
Có nhiều thuận lợi về vị trí địa lý, song quận cũng gặp rất nhiều khó khăn khi được ra đời là một quận “non trẻ”:
- Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng khung, tuy đã được đầu tư nhưng còn thiếu nhiều và chưa đồng bộ, một số tuyến đường lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội; hạ tầng kỹ thuật trong các khu dân cư vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, xuống cấp, đặc biệt tại khu vực bờ Tây sông Nhuệ. Do vậy, làm nảy sinh một số vấn đề bất cập, nhất là những áp lực quá tải đô thị như: ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, dân nhập cư đông đúc, sự phân hóa giàu - nghèo lớn giữa các phường đã đô thị hóa và các phường đang đô thị hóa...
Đồng thời, những ảnh hưởng xuất phát từ người nghèo là một trong những trở ngại trực tiếp trong công tác giảm nghèo của quận Nam Từ Liêm.
Số liệu tổng điều tra hộ nghèo trên địa bàn quận cho thấy, tình trạng vẫn còn hộ nghèo trên địa bàn hiện nay bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong đó, ngoài các nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân người nghèo như thiếu kiến thức, lười lao động, có thành viên mắc bệnh hiểm nghèo… thì còn có nguyên nhân khác xuất phát từ điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của quận còn chưa đồng bộ, tốc độ đô thị hóa nhanh nhưng cơ sở hạ tầng giao thông chưa đầy đủ, các dịch vụ xã hội còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều công trình hạ tầng xã hội, các thiết chế công thiết yếu cấp quận và cấp phường còn thiếu như: Trung tâm văn hóa - thể dục thể thao quận; các trường học, trạm y tế, chợ dân sinh; trụ sở công an phường (thiếu 05); trụ sở Đảng ủy - HĐND - UBND, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phường (thiếu 03 trụ sở); nhà văn hóa tổ dân phố (thiếu 38 nhà văn hóa)...
Có thể phân tích những nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong công tác giảm nghèo trên địa bàn quận Nam Từ Liêm như sau:
Từ 01/4/2014, UBND quận bắt đầu đi vào hoạt động ổn định, vì vậy đối với đối tượng nghèo phải áp dụng khi thực hiện theo chuẩn nghèo đô thị, qua rà soát quận còn 560 hộ nghèo (tỷ lệ 1,39%), đến 2015 giảm còn 388 hộ nghèo (tỷ lệ 0,96%). Áp dụng chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn mới 2016-2020, qua rà soát quận có 838 hộ nghèo với các nguyên nhân:
Thứ nhất là nghèo do thiếu vốn và sử dụng nguồn vốn vay chưa hiệu quả (chiếm 17%);
Thứ hai là nghèo do thiếu đất canh tác (chiếm 8,74%), thiếu phương tiện sản xuất (chiếm đến 36,1%);
Thứ ba là nghèo do hộ nghèo không có người trong độ tuổi lao động (chiếm 9,79%): Đây là các trường hợp không do ý thức chủ quan của người nghèo mà do hoàn cảnh khó khăn dẫn đến.
Thứ tư là nghèo do trong hộ nghèo có thành viên mắc bệnh hiểm nghèo (23,6%), bị khuyết tật đặc biệt nặng (1,28%): đối tượng nghèo này là những đối tượng đặc biệt hơn các đối tượng nghèo chung khác, đó là họ là những người gánh chịu nhiều khó khăn hơn cả về kinh tế và sức khoẻ.
Thứ năm là nghèo do lười lao động (4,9%): chiếm không nhiều song cũng là vấn đề cần bàn tới. Nhận thức và năng lực tự vươn lên thoát nghèo của các hộ nghèo còn hạn chế.
Mỗi hộ nghèo lại có thể có một lý do, một nguyên nhân, một hoàn cảnh khác nhau khiến họ trở thành những người yếu thế trong xã hội, vì vậy cần phải nắm bắt hoàn cảnh của từng người để Nhà nước có những biện pháp, giải pháp đối với từng trường hợp, trên cở sở đó huy động sức mạnh của toàn xã hội để công tác giảm nghèo đạt hiệu quả nhất.
Để đạt được tốt mục tiêu, nhiệm vụ giảm nghèo trên địa bàn quận từ nay đến năm 2020, đó là phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,85% năm 2016 xuống còn 0,82% vào cuối năm 2020, quận cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Cần tập trung thực hiện nhóm giải pháp liên quan đến phát triển đô thị trên địa bàn quận, nhằm góp phần thực hiện công tác giảm nghèo, đồng thời đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống, vật chất tinh thần nhân dân.
- Về khớp nối hạ tầng giữa các khu đô thị mới với khu dân cư. Đặc biệt với việc xây dựng và phát triển các khu đô thị này, quận sẽ có sự cân bằng hơn trong phát triển đô thị giữa hai bờ sông Nhuệ, tránh được sự phân hóa giàu nghèo cao như hiện nay.
- Về hoàn chỉnh, phát triển hạ tầng kỹ thuật: Lập kế hoạch chỉnh trang hạ tầng giao thông cũ và nghiên cứu thực hiện xây dựng mới các tuyến đường giao thông khung quan trọng nối liền 2 vùng đã phát triển và đang phát triển của quận, ví dụ tuyến đường Trần Hữu Dực kéo dài qua sông Nhuệ, nối từ khu Mỹ Đình sang Xuân Phương, song song với đường 32 hoặc tuyến đường nối từ quận Cầu Giấy sang quận Nam Từ Liêm (Dịch Vọng - Phú Mỹ - Cầu Diễn) .v.v.. nhằm phát triển kinh tế đều toàn quận.
- Quan tâm xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường sông Nhuệ và không khí.
- Cần thực hiện quy hoạch đồng bộ và tổng thể các vị trí quy hoạch quan trọng của quận. Quy hoạch cần phải được đảm bảo các vị trí đường giao thông, các công trình thiết chế công phục vụ nhu cầu dân sinh như trạm y tế, trường học, nhà văn hóa tổ dân phố, chợ dân sinh... vì đây là những vấn đề dân sinh bức xúc.
- Triển khai thực hiện có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết TW 9, khóa 10 về phát triển văn hóa, tiếp tục củng cố xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; thực hiện nếp sống mới tại khu dân cư trong việc tổ chức lễ hội, cưới, tang...
- Thực hiện tốt Chương trình hành động số 27-Ctr/TU ngày 17/02/2014 của Thành ủy Hà Nội về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo”.
- Quan tâm thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt quan tâm các đối tượng hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, người cao tuổi, đối tượng chính sách.v.v..
- Kiểm soát tốc độ gia tăng dân số, giảm tỷ lệ sinh thô và phấn đấu giảm tỷ lệ sinh con thứ 3+, nhất là quan tâm tuyên truyền, vận động hộ nghèo đang trong độ tuổi sinh con không sinh nhiều con (3+) vì làm giảm chất lượng cuộc sống.
Thứ hai, nhóm giải pháp triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ giảm nghèo.
UBND quận cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp an sinh xã hội. Triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ giảm nghèo của Trung ương, của Thành phố, trong đó tập trung vào các giải pháp chính như sau:
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cấp, các ngành, các tổ chức từ quận đến cơ sở, thường xuyên tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho nhân dân, đặc biệt là người nghèo về mục tiêu giảm nghèo.
- Bám sát Nghị quyết của HĐND Thành phố về giao chỉ tiêu giảm nghèo, Quyết định của UBND Thành phố về giao chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán thu chi ngân sách, Nghị quyết của HĐND quận Nam Từ Liêm về giao chỉ tiêu giảm nghèo hàng năm.
- Kịp thời ban hành các kế hoạch, văn bản chỉ đạo, điều hành, đồng thời hướng dẫn, đôn đốc triển khai công tác thực hiện giảm nghèo trên địa bàn quận.
- Các cấp uỷ Đảng, chính quyền phường, các ban, ngành, đoàn thể đưa nhiệm vụ và chỉ tiêu giảm nghèo vào Nghị quyết, chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm để tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo xác định công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị. Thực hiện giao chỉ tiêu giảm nghèo đến tổ dân phố. Chỉ tiêu giảm nghèo là căn cứ để xét tổ dân phố văn hóa, phân công cụ thể cán bộ Hội, đoàn thể, các đơn vị cơ sở theo dõi, giúp đỡ hộ nghèo. Xây dựng, triển khai các giải pháp huy động nguồn lực đảm bảo việc thực hiện công tác giảm nghèo, ưu tiên nguồn lực cho các phường có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Hoạt động truyền thông về giảm nghèo
Tổ chức tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung và của Thành phố, của quận nói riêng về giảm nghèo, khích lệ hộ nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, tư vấn miễn phí về kinh nghiệm vươn lên thoát nghèo của các hộ dân. Tuyên truyền vận động thực hiện chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình. Đặc biệt chú trọng biện pháp tuyên truyền, vận động giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư.
Nâng cao nhận thức, năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nghèo của các cấp, ngành, các tổ chức, đoàn thể:
Kiện toàn Ban chỉ đạo Giảm nghèo của quận và các phường. Bố trí đủ và ổn định cán bộ làm công tác giảm nghèo nhất là tại phường.
Tổ chức tập huấn, nâng cao kỹ năng cho cán bộ quận, cán bộ phường trong việc tuyên truyền vận động, huy động nguồn lực cộng đồng phục vụ cho công tác giảm nghèo. Tập huấn việc thu thập thông tin về công tác giảm nghèo, việc thực hiện các chính sách, theo dõi giám sát, đánh giá thực hiện kết quả giảm nghèo.
Tuyên truyền vận động các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn ưu tiên tiếp nhận dạy nghề và sử dụng lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo vào làm việc.
Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ người nghèo
- Hỗ trợ tạo điều kiện cho người nghèo có việc làm, phát triển sản xuất, tăng thu nhập.
+ Về tín dụng ưu đãi cho người nghèo: Ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo vay vốn, hỗ trợ tạo việc làm, vốn dành cho người nghèo phát triển sản xuất thông qua tín chấp của các hội, đoàn thể, giám sát quá trình sử dụng nguồn vốn vay, kịp thời hướng dẫn hộ nghèo, hộ cận nghèo cách làm ăn có hiệu quả (nguồn vốn cho vay ưu đãi gồm vốn của Phòng Giao dịch Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội quận được uỷ thác quản lý; Quỹ của Hội Phụ nữ; hàng năm ngân sách quận dành một phần tăng thu và tiết kiệm chi ngân sách để bổ sung vào nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định).
+ Điều tra, rà soát nhu cầu tuyển dụng lao động của các cơ quan, tổ chức và các doanh nghiệp trên địa bàn quận hàng năm, đề nghị các đơn vị ưu tiên tuyển dụng lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo.
+ Phối hợp tuyên truyền, thông báo thông tin các phiên giao dịch việc làm lưu động, các phiên giao dịch việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội, điểm giao dịch việc làm vệ tinh đặt tại số 18 Nguyễn Cơ Thạch, phường Cầu Diễn để tạo điều kiện cho người nghèo tìm việc làm, tăng thu nhập. Tăng cường vận động các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trên địa bàn có nhu cầu tuyển dụng lao động ưu tiên tiếp nhận lao động thuộc hộ nghèo vào làm việc.
+ Triển khai các mô hình giảm nghèo; hướng dẫn, tư vấn cho hộ nghèo các mô hình dịch vụ, thương mại phù hợp để sản xuất, kinh doanh đặc biệt là các nghề truyền thống của địa phương góp phần thoát nghèo bền vững. Ưu tiên các hộ nghèo được bố trí địa điểm kinh doanh dịch vụ tại các chợ, trung tâm thương mại trên địa bàn.
- Hỗ trợ hộ nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở và kế hoạch hoá gia đình:
+ Hỗ trợ về y tế: Cấp thẻ BHYT cho 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của các cơ sở y tế từ quận đến các phường (tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao kiến thức chuyên môn cho đội ngũ y, bác sĩ...). Hỗ trợ thực hiện kế hoạch hoá gia đình cho hộ nghèo. Mở rộng mạng lưới y tế, thực hiện xã hội hóa công tác đảm bảo chăm sóc sức khỏe nhân dân để đảm bảo an toàn sức khỏe nhân dân, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.
+ Hỗ trợ về giáo dục: Thực hiện miễn, giảm học phí cho con hộ nghèo, cận nghèo theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Vận động tặng sách vở, đồ dùng học tập, cấp học bổng cho học sinh nghèo vượt khó.
+ Hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở: Thực hiện bố trí kinh phí để hỗ trợ hộ nghèo sửa chữa nhà đối với những hộ có nhà hư hỏng nặng không có điều kiện sửa chữa: từ nguồn ngân sách của Trung ương và Thành phố, Quỹ “Vì người nghèo” các cấp và vận động gia đình, dòng họ, cộng đồng.
+ Phối hợp với các Trung tâm Bảo trợ xã hội trên địa bàn quận để rà soát đưa các trẻ em, người cao tuổi của các hộ gia đình đặc biệt khó khăn, hộ gia đình không có khả năng thoát nghèo vào các trung tâm nuôi dưỡng, giảm bớt khó khăn cho các hộ nghèo.
- Chính sách trợ cấp cho đối tượng hộ nghèo, bảo trợ xã hội và người tàn tật, già yếu, ốm đau không có khả năng lao động thuộc hộ nghèo:
+ Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ, ưu tiên đối với hộ nghèo trên cơ sở chuẩn nghèo mới theo hướng dẫn của Thành phố và các chính sách đảm bảo an sinh xã hội của Chính phủ.
+ Trợ cấp thường xuyên cho các đối tượng bảo trợ xã hội như: người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật không nơi nương tựa đang sinh sống tại cộng đồng để giảm bớt một phần khó khăn cho các hộ nghèo.
+ Đảm bảo chi trả trợ cấp cho người già yếu ốm đau, người mắc bệnh hiểm nghèo không có khả năng lao động để thoát nghèo theo theo quy định UBND Thành phố.
Tăng cường nâng cao các hoạt động giám sát, đánh giá:
- Theo dõi giám sát thực hiện chương trình mục tiêu giảm nghèo ở quận và tại các phường giai đoạn 2016 - 2020.
- Nâng cao năng lực, vai trò trách nhiệm của các thành viên Ban Chỉ đạo Giảm nghèo trong công tác giám sát, đánh giá.
- Tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện chính sách trợ giúp người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội tại các phường.
Thứ ba, quan tâm công tác xã hội hóa trong hoạt động giảm nghèo ở quận Nam Từ Liêm:
- Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Quỹ “Vì người nghèo”: Tăng cường công tác tuyên truyền thực hiện Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, các hoạt động xã hội hoá công tác giảm nghèo; tập trung thực hiện tháng cao điểm vì người nghèo từ ngày 10/11 đến ngày 18/11 hàng năm, tăng cường biện pháp vận động Quỹ “Vì người nghèo” các cấp để bổ sung nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo. Phối hợp với MTTQ, các đoàn thể vận động các hội viên, đoàn viên trợ giúp các hộ nghèo là đoàn viên, hội viên huy động nguồn lực để giảm nghèo theo chỉ tiêu hàng năm.
- Đẩy mạnh thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển góp phần xã hội hoá công tác giảm nghèo.
Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; hỗ trợ thủ tục và tạo mọi điều kiện để các nhà đầu tư, doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, mở rộng đầu tư trên địa bàn quận. Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các loại thị trường. Đồng thời huy động nguồn lực từ các cơ sở sản xuất kinh doanh cùng với chính quyền có trách nhiệm với cộng đồng đặc biệt là công tác giảm nghèo ví dụ như đóng góp quỹ, tạo công ăn việc làm phù hợp cho đối tượng bị thu hồi đất (không còn đất sản xuất, không công ăn việc làm); doanh nghiệp phải thực hiện các hoạt động nhân đạo, từ thiện trên cơ sở pháp luật cho phép, có sự chấp thuận, báo cáo chính quyền địa phương.
Tổ chức các phiên giao dịch việc làm vệ tinh trong đó cung cấp doanh nghiệp đối tượng lao động, đồng thời cung cấp cho đối tượng thất nghiệp các nhu cầu tuyển người của doanh nghiệp. Cơ quan nhà nước chính là cầu nối để 2 đối tượng này gặp được nhau.
Cơ quan nhà nước cũng tăng cường gặp gỡ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn trong giải phóng mặt bằng, triển khai dự án. Tập trung hỗ trợ một số chủ đầu tư các dự án lớn, có tác động thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển đô thị trên địa bàn.
Một số mô hình ứng dụng hiệu quả công tác giảm nghèo ở quận Nam Từ Liêm hiện nay
a. Ứng dụng mô hình chuyển giao công nghệ từ làm thủ công sang tiếp cận máy móc khoa học kỹ thuật
- Mô hình áp dụng: Nghề làm bún Phú Đô, cốm Mễ Trì là một trong những nghề truyền thống lâu đời ở huyện Từ Liêm trước đây (nay quận Nam Từ Liêm). Làng nghề ngày càng ít nhà làm và bị mai một đi rất nhiều do phương thức sản xuất vẫn thủ công, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn lao động. Quận đã nhận thức được sâu xa vấn đề ảnh hưởng khi những làng nghề quận dần mất đi; chính vì vậy quận đã có nhiều biện pháp, giải pháp khắc phục một trong đó là có kế hoạch phân bổ nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội quận, từ đó cho vay thông qua ủy thác Hội Phụ nữ với mức vay để đầu tư khôi phục làng nghề, ví dụ bún Phú Đô là 3 tỷ đồng; đồng thời vận động, tuyên truyền, tạo điều kiện và khuyến khích hộ dân tiếp tục sản xuất với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến theo dây chuyền sản xuất, có điều kiện tiêu chuẩn bảo bảo chất lượng vệ sinh toàn thực phẩm và được cấp giấy chứng nhận ISO. UBND quận đã giao nhiệm vụ cho phòng chuyên môn kinh tế xây dựng kế hoạch khôi phục làng nghề truyền thống và có biện pháp quảng bá thương hiệu, đặc sản của quận.
- Đánh giá: Với mục đích là tạo cơ hội cho người nghèo, hộ nghèo có điều kiện phát triển sản xuất, tăng thu nhập, thoát nghèo, vươn lên khá giàu, chính quyền hỗ trợ hộ nghèo tìm việc làm, phát triển sản xuất, tăng thu nhập thông qua các chương trình vay vốn, dạy nghề. Các hộ nghèo cũng được ưu tiên bố trí địa điểm kinh doanh dịch vụ tại các chợ, trung tâm thương mại trên địa bàn... Biện pháp giảm nghèo bền vững của quận là chủ động kết nối, tạo cơ hội cho người nghèo, hộ nghèo có điều kiện tiếp cận với nguồn vố đồng thời hướng dẫn ứng dụng khoa học tiên tiến, phát triển sản xuất, tăng thu nhập phù hợp với đòi hỏi khách quan một đất nước đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
b. Ứng dụng mô hình cho hội viên Hội Cựu chiến binh vay vốn sản xuất giỏi, tạo việc làm, thu hút lao động
- Mô hình được áp dụng: Các thành viên đoàn thể thuộc Ban giảm nghèo phường đã giới thiệu với Ban giảm nghèo một số hội viên, đoàn viên của mình đã được vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, nay phát triển có cơ sở sản xuất kinh doanh giỏi cần nhiều lao động; trên cơ sở đó Ban giảm nghèo liên hệ với một số lao động là hộ nghèo về cơ sở, và vận động những lao động này tham gia. Tiêu biểu như ông Nguyễn Văn Tỉnh là hội viên Hội Cựu chiến binh của phường Đại Mỗ là chủ trang trại cam canh, bưởi diễn, hoa đào, qua ý kiến của chính quyền, đoàn thể luôn tạo điều kiện thu hút lao động từ các hộ nghèo, hộ cận nghèo, giúp họ có mức thu nhập khoảng 4,5 triệu đồng/tháng. Trang trại của ông Tỉnh thường xuyên có khoảng 25 lao động. Cùng với việc tạo công ăn việc làm, ông Tỉnh còn dạy nghề trồng cây, ghép quả. Qua đó, nhiều người đã tự lập thành công, mạnh dạn đứng ra trồng trọt, kinh doanh, đưa gia đình thoát nghèo.
- Đánh giá: Mô hình được ứng dụng đã giải quyết được công ăn việc làm cho lao động trong hộ nghèo nhưng hoạt động theo mùa và không bền vững do tính chất đặc thù của quận Nam Từ Liêm đang là quận tốc độ đô thị hóa nhanh. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.
c. Ứng dụng mô hình huy động nguồn vốn xã hội hoá trợ giúp người nghèo xây, sửa nhà
- Mô hình được áp dụng: Tại gia đình mẹ con chị Nguyễn Thị Hậu, hộ nghèo phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm: gia đình có mẹ và 2 con hiện đang học cấp 2 và cấp 3, chồng đã mất từ khi các cháu còn bé, bản thân chị đi chợ buôn bán nhỏ tuỳ theo từng mùa nuôi hai cháu ăn học. Thực tế, đối với hộ nghèo gia đình chị Hậu, các con đã được hỗ trợ miễn giảm học phí, được cung cấp điện chiếu sáng.v.v.. Tuy nhiên, qua nắm tình hình thực tế tại địa phương được biết, hiện ba mẹ con chị Hậu sống trong căn nhà lụp xụp đã xuống cấp trầm trọng, không có khả năng cải tạo, sửa chữa. MTTQ phường, đơn vị thường trực Quỹ “Vì người nghèo” được sự nhất trí của lãnh đạo Đảng ủy, UBND trích Quỹ “Vì người nghèo” để hỗ trợ chị Hậu sửa chữa, cải tạo ngôi nhà với mức hỗ trợ là 20 triệu đồng.
- Phỏng vấn hộ nghèo: Gặp tôi, chị Nguyễn Thị Hậu chia sẻ niềm vui: "Bao năm qua, giờ tôi mới có giấc ngủ yên. Mọi khi hễ trời mưa là nhà ngập như ao, nhà chỗ nào cũng dột, chỉ biết phủ áo mưa lên trên màn để tránh dột vào giường, rồi đêm nào cũng thấp thỏm lo nhà sập, có những đêm mưa thức trắng trông cho các con được ngủ yên giấc. May nhờ có chính quyền địa phương quan tâm kêu gọi ủng hộ trực tiếp đến tôi".
- Đánh giá: mô hình huy động nguồn vốn xã hội hóa vận động trực tiếp đến hộ gia đình giải quyết được vấn đề khó khăn về nguồn vốn từ Quỹ “Vì người nghèo”, đồng thời giải quyết vấn đề lo lắng của cá nhân/tổ chức ủng hộ sợ việc ủng hộ không đến được tận tay người nghèo. Cách làm trên đã thể hiện sự quyết tâm của chính quyền địa phương, sự quan tâm của MTTQ và các tổ chức thành viên và sự vào cuộc của toàn xã hội.
Qua phân tích toàn bộ những yếu tố khách quan, chủ quan; những điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến công tác giảm nghèo trên địa bàn quận. Tác giả đã tìm hiểu thực trạng công tác giảm nghèo huyện Từ Liêm trước đây, nay là quận Nam Từ Liêm giai đoạn 2011-2015 và hiện nay trên cơ sở đó tìm được giải pháp hữu hiệu nhất nhằm giảm nghèo bền vững ở quận Nam Từ Liêm. Và từ những mô hình hiệu quả nhằm giảm nghèo trên địa bàn quận; tác giả nhận thấy công tác giảm nghèo không phải chỉ của Nhà nước mà cần phải huy động xã hội hóa trợ giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo với sự vào cuộc của chính quyền địa phương, các hội, ngành, đoàn thể và tham gia góp sức của cá nhân/tổ chức và toàn xã hội.
Đinh Thị Cẩm Nhung