Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII

(Mặt trận) - Những điểm mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa, và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa hết sức to lớn về lý luận và thực tiễn; kế thừa những kết quả đã đạt được của nhiều nhiệm kỳ trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đóng góp vào sự phát triển đất nước trong điều kiện mới, đồng thời, coi trọng khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030, và 100 năm thành lập nước vào năm 2045.

Thủ tướng: Đưa giáo dục và đào tạo Việt Nam theo kịp các nước phát triển càng sớm càng tốt

Chủ tịch nước Lương Cường tiếp Chủ tịch Quốc hội Chính quyền Nhân dân Cuba

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Chủ tịch Quốc hội Cuba

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại thôn Thượng Điện, xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo. Ảnh: Trí Dũng – TTXVN 

DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐƯỢC PHÁT HUY VÀ NGÀY CÀNG MỞ RỘNG

Dân chủ xã hội chủ nghĩa, một đặc trưng quan trọng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Thứ nhất, Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” (1). Đây là những quan điểm được tổng kết, có tính khái quát cao về dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ xã hội ta là “dân chủ” và “nhân dân làm chủ”, trở thành một trong tám đặc trưng của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu, đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để dân chủ được thực hành đầy đủ, phụ thuộc nhiều yếu tố, như: bản chất chế độ xã hội, năng lực thực thi của bộ máy công quyền, trình độ phát triển kinh tế- xã hội, đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa, dân trí..., đặc biệt là phải được xây dựng và thực hành qua từng nhiệm kỳ, các giai đoạn phát triển của đất nước. Vì thế, mỗi nhiệm kỳ đại hội Đảng cần tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận, định hướng cho việc xây dựng, hoàn thiện và thực hành dân chủ phù hợp.

Thứ hai, các văn bản quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội, Hiến pháp 2013 được ban hành với nhiều điểm mới, trong đó có vấn đề liên quan đến dân chủ, quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống các văn bản pháp luật về dân chủ trong hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước được cụ thể hóa và thể chế hóa. Bộ Chính trị đã ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và nhiều quy định khác. Các hình thức thực hiện dân chủ (dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp) được coi trọng. Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, cũng như: Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt những kết quả quan trọng. Bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội  mở rộng hơn. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội có nhiều đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, tinh gọn bộ máy; phát huy vai trò chủ động, tích cực, dân chủ, tự giác của các hội viên, đoàn viên...

Thứ ba, kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và đặc biệt là sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh( bổ sung và phát triển năm 2011), trên các lĩnh vực: (1) Thực hành dân chủ trong Đảng, tiếp tục có bước phát triển mới, khuyến khích tự do tư tưởng trong sinh hoạt Đảng, tôn trọng sự khác biệt trong quan điểm, ý kiến cá nhân trên tinh thần xây dựng; (2) Về thực hành dân chủ trong các cơ quan nhà nước, thể hiện trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của Quốc hội tiếp tục đổi mới, theo hướng chuyên nghiệp, dân chủ tiếp tục được coi trọng hơn. Hoạt động của chính phủ được đổi mới theo hướng xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ kiến tạo nhằm phát huy dân chủ trong thực thi hành chính công. Các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện toàn, hoạt động theo hướng thượng tôn pháp luật, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; (3) Về thực hành dân chủ trong hoạt động Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tiếp tục được phát huy; tích cực tham gia tư vấn, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước trong từng thời kỳ.

Thứ tư, kết quả và những hạn chế trong thực hành dân chủ nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.Về thành tựu, Nghị quyết Đại hội khẳng định, “Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng”; “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế”(2).  Quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước được quan tâm. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội.

Tuy nhiên, dân chủ hóa trong các lĩnh vực chưa đồng bộ với yêu cầu đổi mới đất nước, còn nhiều hạn chế, trong tổ chức, thực hiện. Một số nội dung về dân chủ, quyền còn người chưa được cụ thể hóa thành luật, chính sách; nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về dân chủ và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn bị vi phạm, việc thực hiện dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện về quan điểm, chủ trương cũng như tổ chức thực hiện trong nhiệm kỳ tới...

Nhiều luận điểm mới được bổ sung trong Văn kiện Đại hội XIII

Một là, bổ sung thêm nội dung, phương châm thực hiện dân chủ, như thêm “dân giám sát, dân thụ hưởng” trong Phương châm: “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, theo tinh thần Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Làm tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Hai là, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội.

Ba là, khẳng định:  “Vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”(3), và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nền tảng chính trị, pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Điều đó đòi hỏi phải phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức.

Bốn là, nêu rõ yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức phải nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội” trong thực hành dân chủ, trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Trên cơ sở đó: “ Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”(4). Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hoá.

PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam

Một là, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) đã xác định, “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế”(5). Đây cũng là một trong năm bài học lớn, được nhấn mạnh trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò” rất quan trọng” của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:“ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh”(6). Tiếp tục khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Hai là, Điều lệ Đảng, các văn kiện quan trọng khác của Đảng, Nhà nước luôn đề cập tới vấn đề đại đoàn kết, Hiến pháp năm 2013, Điều 9, khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Những nội dung trên luôn được cụ thể hóa trong văn kiện các kỳ đại hội Đảng.

Ba là, kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, tính chủ động cao hơn, hướng nhiều hơn về cơ sở; bộ máy tổ chức từng bước được sắp xếp lại phù hợp hơn với yêu cầu mới của đất nước; xác định rõ hơn nhiều nhiệm vụ trọng tâm trong từng nhiệm kỳ của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, để phản ánh tiếng nói của người dân trong các sự kiện lớn của đất nước. Từng bước định vị rõ hơn vị trí, vai trò trong hoạt động của hệ thống chính trị, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Phát huy vai trò của các cá nhân tiêu biểu ở địa phương, cơ sở, tham gia các hoạt động trên địa bàn khu dân cư. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở. Mở rộng tổ chức thông qua việc kết nạp các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp. Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia công tác quản lý xã hội, quản lý nhà nước có hiệu quả.

Bốn là, thành tựu và hạn chế trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Theo đó, đánh giá về kết quả đạt được, đã nhấn mạnh chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong nhiệm kỳ vừa qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân...

Tuy  đã có nhiều đổi mới, nhưng tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, bộ máy vẫn còn cồng kềnh; cơ cấu tổ chức vẫn tồn tại theo hướng hành chính- biên chế, một bộ phận cán bộ chuyên trách công tác còn yếu về năng lực chuyên môn, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ chưa thường xuyên. Việc tuyên truyền, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, các cuộc vận động chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc của nhân dân. Nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có mặt còn chậm đổi mới so với yêu cầu, nhiệm vụ.

Những luận điểm mới được bổ sung có ý nghĩa quan trọng

Một là, đã khái quát quan điểm của Đảng đối với các tầng lớp nhân dân, khẳng định những quan điểm chung nhất là: Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích trong xã hội. Luôn quan tâm tới lợi ích chính đáng của nhân dân, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải hướng tới người dân, lấy người dân làm trung tâm.

Hai là, trong phần nói về giai cấp công nhân đã bổ sung nhiệm vụ, giải pháp về hoạt động của Công đoàn: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhấn mạnh yêu cầu: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế“(7), chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; tập trung làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công nhân. Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay.

Ba là, trong phần nói về giai cấp nông dân, đã nêu giải pháp trong điều kiện mới: Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới gắn với đô thị hoá nông thôn, tạo điều kiện để cư dân nông thôn trở thành cư dân đô thị mà không dẫn đến di cư quy mô lớn. Đặc biệt nêu giải pháp, có chính sách hợp lý để chuyển lao động nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp. Huy động và phát huy mọỉ nguồn lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.

Bốn là, đối với trí thức, bên cạnh khẳng định quan điểm: xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Tiếp tục nhấn mạnh quan điểm, thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức. “Trọng dụng, đãi ngộ thoả đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài“[8], nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng.

Năm là, đối với đội ngũ doanh nhân, Báo cáo Chính trị lần này đã bổ sung: tạo môi trường thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo, phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hoá, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng, khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời những doanh nhân có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Sáu là, nhấn mạnh khát vọng vươn lên của thế hệ trẻ. Quan tâm tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp. Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện và bảo đảm quyền của thiếu niên, nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ cho thế hệ trẻ.

Bảy là, đề xuất quan điểm về xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới: Trí tuệ, nhân ái, hiện đại, văn minh. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của đất nước. Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em.

Tám là, nhấn mạnh yêu cầu về động viên cựu chiến binh, công an hưu trí. Tăng cường vai trò của hội viên trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong điều kiện mới, phát huy bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ và Công an nhân dân Việt Nam cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống.

Chín là, đối với người cao tuổi, bổ sung từ “ bảo trợ”, Báo cáo Chính trị nhấn mạnh yêu cầu phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình. Tôn trọng, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi.  Bảo trợ, giúp đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa. Nhấn mạnh chủ trương tiếp tục xây dựng gia đình kiểu mẫu “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”.

Mười là, đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, đã bổ sung quan điểm: Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đặc biệt là: “Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững“(9). Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mười một, tiếp tục thực hiện các chủ trương về vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mười hai, trong điều kiện mới, coi trọng nhiệm vụ hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Mười ba, nêu tên cuộc vận động mới: “ Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030, trong nội dung về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc không trình bày thành mục riêng, nhưng được thể hiện cụ thể trong tất cả các nhiệm vụ và là cơ sở, nền tảng sức mạnh để hoàn thành các nhiệm vụ.

Có một số nhiệm vụ được nhấn mạnh rõ hơn yêu cầu này, như: Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa vào dân, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, tạo nền tảng xây dựng“ thế trận lòng dân“ gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Tiếp tục phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng đối với phát triển kinh tế- xã hội.

*

Từ những điểm mới trên có thể thấy, vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa, và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vẫn là những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong điều kiện mới của đất nước. Những điểm mới trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước về vấn đề này trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa hết sức to lớn về lý luận và thực tiễn:

Một là, tiếp tục bổ sung, làm sáng tỏ hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, giữ vững ổn định, xây dựng đất nước ta phồn vinh, hạnh phúc.

Hai là, kế thừa những kết quả đã đạt được trong nhiều nhiệm kỳ trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đóng góp vào sự phát triển đất nước trong điều kiện mới, đồng thời, coi trọng khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030, và 100 năm thành lập nước vào năm 2045.

Ba là, những nội dung mới vừa thể hiện bản chất tốt đẹp, truyền thống quý báu của dân tộc về dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc; vừa thể hiện tính hiện đại, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa trên thế giới, các giá trị phổ quát của nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam./.

 PGS.TS. Phạm Văn Linh

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương