Đảng lãnh đạo hội nhập quốc tế, phát triển đất nước nhanh, bền vững

(Mặt trận) - Trong điều kiện của thế giới hiện nay, khi toàn cầu hóa với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã phát triển chưa từng có, kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan buộc tất cả các nước đều không thể bỏ qua hoặc cưỡng lại. Hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập.

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Đại sứ Australia tại Việt Nam đến chào từ biệt

Thủ tướng: 'Sự sống nảy sinh từ cái chết' ở Làng Nủ, Nậm Tông, Kho Vàng

Sắp xếp, tinh gọn phải nhanh, làm khẩn trương nhưng phải rất khoa học, phòng ngừa các hệ lụy, rủi ro

Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế luôn là một cuộc chơi với nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Hội nhập quốc tế trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, kinh tế, sự chi phối của các nước lớn và những diễn biến phức tạp, hết sức khó lường của thế giới, đòi hỏi phải giữ được độc lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.

Như vậy, hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc, vừa là nhu cầu tồn tại của mỗi nước. Mỗi quốc gia và mỗi giai cấp nắm chính quyền đều theo đuổi các mục tiêu và lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập nên hội nhập quốc tế càng mạnh và rộng mở thì tính phức tạp của quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh càng gia tăng.

Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. (Ảnh: TL)

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc phân tích bối cảnh quốc tế, bám sát bước đi của nhân loại, tận dụng sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đưa đất nước vượt qua nhiều khó khăn thách thức, vừa phát triển nhanh, bền vững, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, cần xác định rõ những tác động hai mặt của hội nhập quốc tế và đưa ra những định hướng, chính sách xác đáng.

 

I. Hội nhập quốc tế và tác động của nó với việc phát triển đất nước nhanh, bền vững

Hội nhập quốc tế là quá trình quốc gia tham gia hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh vực kinh tế và những lĩnh vực khác, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với nguồn lực quốc tế, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, chiếm lĩnh vị trí thích hợp có thể được trong quan hệ quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau và nhiều phương thức khác nhau. Các cấp độ hội nhập được thể hiện ở nhiều mức, từ thấp đến cao, từ song phương đến đa phương, có khi hội nhập được thực hiện cùng một lúc trong nhiều lĩnh vực với nhiều cấp độ. Có thể nói cả thế giới đang trong cao trào hội nhập quốc tế với tốc độ ngày càng nhanh và lĩnh vực ngày càng nhiều, dẫn tới sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Chính vì thế, hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp chứa ẩn nhiều yếu tố thuận nghịch. Xem xét trên lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong mục tiêu hội nhập quốc tế ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam có vấn đề phát triển nhanh bền vững, có thể thấy rõ hội nhập quốc tế tác động hai chiều thuận nghịch nhau.

Hội nhập quốc tế tạo thuận lợi cho Việt Nam thu hút nguồn lực để phát triển, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Điều đó thể hiện trên những khía cạnh. Thứ nhất, hội nhập quốc tế giúp cho việc tham gia đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)… Sự tham gia vào các thể chế này tạo cho Việt Nam được chia sẻ kinh nghiệm, cách thức và chiến lược phát triển, góp phần giảm thiểu rủi ro. Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp cho việc thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là kỹ năng quản lý đất nước, điều chỉnh vai trò của Nhà nước phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung quản lý, điều hành vĩ mô, kiến tạo phát triển và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải cách hành chính. Thông qua hội nhập quốc tế, năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trường được nâng lên và hiệu quả hơn. Từ đó Nhà nước định hướng phát triển và đưa ra các giải pháp khả thi để đi trước, đón đầu, tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, hội nhập quốc tế tạo động lực thúc đẩy cho các nhà quản lý, doanh nhân, doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường quản trị, đổi mới công nghệ và phương thức kinh doanh. Việc thực hiện các cam kết hội nhập giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, tiếp cận vốn, công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh để tăng khả năng cạnh tranh.

Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đối với việc phát triển nhanh, bền vững. Đó là việc nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt dễ bị tổn thương và dễ bị phụ thuộc nhiều hơn vào bên ngoài. Trong môi trường hội nhập sâu rộng, những biến động kinh tế bất lợi từ thế giới và khu vực sẽ tác động tiêu cực vào nền kinh tế trong nước. Việc mở cửa thị trường trong điều kiện sức cạnh tranh yếu kém sẽ tiềm ẩn rủi ro là nhiều lĩnh vực kinh tế bị bên ngoài thâu tóm, nhiều doanh nghiệp bị thua ngay trên sân nhà. Ngay việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nếu không được cân nhắc và kiểm soát kỹ, dễ bị tiếp nhận những công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nhanh, bền vững.

II. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế

Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: Cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới; đồng thời Đại hội đưa ra chủ trương hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật đối với các nước. Tới Đại hội VII, Đảng đưa ra định hướng đa dạng hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế. Đến Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong Văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tại Đại hội X, Đảng đã nhấn mạnh chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Đại hội XI khẳng định chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (không chỉ hội nhập về kinh tế), nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và phát triển nhanh, bền vững”. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động đối đầu bất lợi”[1].

Bên cạnh việc xác định những quan điểm chỉ đạo về hội nhập quốc tế thể hiện trong các văn kiện của các đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Sau đó, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “về hội nhập quốc tế”. Sau Đại hội XII Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.

Như vậy, hội nhập quốc tế là một chủ trương đúng đắn, nhất quán, là định hướng chiến lược lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI xác định: “Hội nhập quốc tế nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia. Hội nhập quốc tế nhằm thiết thực thực hiện mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững và bảo đảm quốc phòng, an ninh; thúc đẩy mối quan hệ biện chứng giữa việc bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển nhanh, bền vững. Đồng thời khi đất nước phát triển nhanh, bền vững, quốc phòng, an ninh được bảo đảm sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế càng thêm sâu, rộng và hiệu quả.

III. Những kết quả và kinh nghiệm bước đầu

1. Những kết quả đạt được

Thực hiện những quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế kỷ XXI của quốc tế, ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Định hướng phát bền vững ở Việt Nam”. Định hướng phát triển nhanh, bền vững ở Việt Nam nêu bật vấn đề đang đặt ra trong 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà Việt Nam phải đối phó. Từ đó định hướng chiến lược đưa ra những quan điểm, chủ trương, chính sách, các cơ sở pháp lý và những nhiệm vụ cần tập trung giải quyết. Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam được xác định rõ là không thay thế các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hiện có của đất nước, mà nhằm mục đích làm căn cứ lý luận và thực tiễn để cụ thể hóa các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của Việt Nam. Định hướng trên cơ sở cụ thể hóa các tiêu chí phát triển về kinh tế, văn hóa, môi trường sẽ giúp cho việc quy hoạch phát triển ở các ngành, các địa phương nhằm mục tiêu bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với việc bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bình ổn đất nước.

Về những nhiệm vụ cụ thể để phát triển nhanh, bền vững, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”[2].

Tham chiếu trên thực tế sự đóng góp của hội nhập quốc tế đối với phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam, có thể nhận rõ trên mấy khía cạnh. Thứ nhất, hội nhập quốc tế, tham gia sự phân công, hợp tác quốc tế giúp nền kinh tế đất nước gia nhập vào chuỗi sản xuất toàn cầu, xác định được vị trí của mình, trên cơ sở đó, tìm kiếm các giải pháp để đi tắt, đón đầu quá trình công nghiệp hóa, có điều kiện đi thẳng vào hiện đại hóa, từ đó rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước khác. Thứ hai, hội nhập quốc tế thúc đẩy việc thu hút vốn, kỹ thuật từ bên ngoài vào làm tăng nguồn lực tổng thể, góp phần gia tăng đáng kể tăng trưởng GDP của đất nước. Tính chung tới nay, cả nước có 23.594 dự án FDI có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 306,3 tỷ USD. Thứ ba, với việc hội nhập đầy đủ vào các thể chế kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện để chia sẻ kinh nghiệm về quản lý, chiến lược đầu tư phát triển, giảm thiểu các rủi ro, góp phần tháo gỡ các khó khăn do các tác động tiêu cực từ bên ngoài như khủng hoảng kinh tế, xu hướng bảo hộ. Thứ tư, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để thử sức cạnh tranh, nâng cao trình độ quản lý, chuyển giao khoa học, công nghệ. Thứ năm, hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu lao động để người lao động được tiếp thu những phong cách làm việc, tổ chức sản xuất. Điều này không chỉ góp phần giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp mà còn góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như tăng thu nhập cho người lao động và tăng thu cho ngân sách. Thứ sáu, hội nhập quốc tế về văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ giúp cho việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần làm chuyển biến tích cực đối với công tác giáo dục, y tế, quản lý xã hội, phòng chống biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường… Tất cả những điều này trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Một số kinh nghiệm bước đầu

Từ những kết quả khi thực hiện chủ trương chiến lược của Đảng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu.

Thứ nhất, khi tham gia hội nhập quốc tế, phải tính toán thận trọng những tác động và hậu quả lâu dài của quá trình toàn cầu hóa với việc phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Cần gắn kết được chiến lược phát triển nhanh, bền vững cùng những bước đi cụ thể trong nước với những biến chuyển mau lẹ của nền kinh tế thế giới, sao cho các cam kết, thỏa thuận trong các khuôn khổ hợp tác tay đôi, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu được vận hành một cách hài hòa, không bị vênh hoặc mâu thuẫn nhau.

Thứ hai, để tranh gây ra những đảo lộn về xã hội, cần luôn luôn đảm bảo sự cân bằng hợp lý giữa các quan hệ: quan hệ giữa đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; quan hệ giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với việc giữ vững độc lập, tự chủ đất nước; quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của đất nước trong các thể chế hội nhập, giữa mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước với những yêu cầu, đòi hỏi của bên ngoài; giữa các vấn đề kinh tế, thương mại với các lĩnh vực khác. Cần kịp thời thích ứng, phản ứng linh hoạt, tạo lập và tăng cường khai thác lợi thế so sánh của đất nước để tham gia hội nhập. Xây dựng vững chắc nền kinh tế độc lập tự chủ, bảo vệ thị trường và môi trường trong nước.

Thứ ba, thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, tạo cho cán bộ, nhân dân có sức đề kháng cao để đối phó với những mặt trái trong quá trình hội nhập. Tính toán kỹ từng lĩnh vực cụ thể cũng như phạm vi, mức độ hội nhập tùy theo điều kiện trong nước. Hội nhập nhưng phải giữ vững định hướng phát triển đất nước, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác vừa đấu tranh.

Thứ tư, hội nhập quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa chính là cơ sở khách quan của chính sách đối ngoại đúng đắn, kịp thời sẽ thúc đẩy hội nhập phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên phải coi hội nhập không phải là mục tiêu, mà là phương tiện hữu hiệu để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường phát triển, nâng cao thế và lực của đất nước trên trường quốc tế.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, H.2016, tr.154-155.