Hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị ở Việt Nam trong tình hình hiện nay

(Mặt trận) - Xây dựng mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam là một quá trình phức tạp, lâu dài, phản ánh sự phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và chính trị của đất nước. Trong điều kiện mới, với việc Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi mô hình tổng thể của hệ thống chính trị tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của tình hình, thực tiễn trong nước và quốc tế.

Chủ tịch Đỗ Văn Chiến chủ trì Hội nghị triển khai công tác hỗ trợ đợt 3 đối với các địa phương bị thiệt hại do cơn bão số 3 (yagi) gây ra

Ban Vận động Cứu trợ Trung ương phân bổ đợt 3 số tiền 948 tỷ đồng hỗ trợ các tỉnh khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (yagi)

Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam trao quyết định nghỉ hưu cho các Phó Chủ tịch nhiệm kỳ 2019-2024

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XV_Ảnh: TTXVN

Mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị (HTCT) có vai trò, vị trí rất quan trọng, là cơ sở hàng đầu bảo đảm cho những thành tựu to lớn của đất nước. Thời gian qua, xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và HTCT có nhiều đổi mới, được triển khai thực hiện quyết liệt với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, có trọng tâm, trọng điểm, bước đầu đạt được những kết quả đáng ghi nhận; cụ thể như sau:

Thứ nhất, mô hình tổng thể HTCT Việt Nam bao gồm các bộ phận cấu thành là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

* Mô hình tổ chức tổng thể của Đảng.

Điều 10, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “1. Hệ thống tổ chức của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. 2. Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo quy định tại Chương VI. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”(1). Hệ thống tổ chức đảng được thành lập theo cấp hành chính lãnh thổ là hệ thống cơ bản, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ở mỗi cấp và của toàn Đảng. Theo quy định của Điều lệ Đảng, tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay bao gồm: Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở, đảng bộ bộ phận, chi bộ cơ sở); cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp ủy); cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy (các ban đảng - các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy, đơn vị sự nghiệp của Đảng); tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội (ban cán sự đảng, đảng đoàn).

* Mô hình tổ chức tổng thể của Nhà nước.

Bộ máy nhà nước là tổng thể cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương, được tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước. Theo Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam bao gồm: Quốc hội (là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước); Chủ tịch nước (là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp); Chính phủ (là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội), tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân; chính quyền địa phương (được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định). 

* Mô hình tổ chức tổng thể của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Theo Hiến pháp năm 2013, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Thứ hai, về số lượng đối với tổ chức bộ máy của ban, bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan trung ương(2).

Đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương (không bao gồm quân đội, công an), tính đến ngày 18-11-2022, có 1.585 cơ quan, đơn vị, giảm 204 tổ chức so với thời điểm 30-6-2017; trong đó, 26 tổng cục thuộc ban, bộ, ngành và tương đương (giảm 18 tổ chức); 280 cục thuộc ban, bộ, ngành và tương đương (tăng 23 tổ chức); 636 vụ thuộc ban, bộ, ngành và tương đương (giảm 102 tổ chức); 643 cục, vụ thuộc tổng cục (giảm 107 tổ chức).

Đối với các đơn vị sự nghiệp, ở thời điểm 30-6-2023 có 1.203 tổ chức, giảm 384 đơn vị so với thời điểm 30-6-2017; trong đó, 833 đơn vị trực thuộc thuộc ban, bộ, ngành trung ương, giảm 22 tổ chức; 132 đơn vị trực thuộc tổng cục, giảm 96 đơn vị; 225 đơn vị trực thuộc cục thuộc ban, bộ, ngành trung ương, giảm 267 đơn vị; có 13 đơn vị trực thuộc cục thuộc tổng cục, tăng 1 đơn vị.

Thứ ba, vềsắp xếp tổ chức bộ máy của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Đối với tổ chức hành chính(3),ở thời điểm 30-6-2023 có 14.056 tổ chức, giảm 6.376 tổ chức so với thời điểm 30-6-2019; trong đó, có 2.179 cơ quan, đơn vị, tổ chức cấp tỉnh, giảm 74 tổ chức; 11.877 phòng và tương đương trực thuộc cơ quan, đơn vị, tổ chức cấp tỉnh, phòng, ban cấp huyện, giảm 6.302 tổ chức. Đối với đơn vị sự nghiệp, ở thời điểm 30-6-2023, có 49.063 đơn vị, giảm 6.504 đơn vị so với thời điểm 30-6-2017.

Thứ tư, về thực hiện một số mô hình mới về tổ chức bộ máy.

Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Kết luận số 34-KL/TW, ngày 7-8-2018, của Bộ Chính trị, “Về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả””, nhiều cấp ủy đã chủ động triển khai thí điểm thực hiện các mô hình mới về tổ chức bộ máy và đạt được một số kết quả nổi bật như sau: 28 tỉnh hợp nhất đảng bộ khối doanh nghiệp với đảng bộ khối các cơ quan cấp tỉnh(4); 1 tỉnh hợp nhất sở giao thông vận tải với sở xây dựng(5); 57/707 đơn vị cấp huyện thuộc 13 tỉnh, thành phố thí điểm hợp nhất ban tổ chức cấp ủy với phòng nội vụ cấp huyện(6); 1 tỉnh, thành phố thí điểm hợp nhất ban tổ chức cấp ủy với sở nội vụ cấp tỉnh(7); 52/707 đơn vị cấp huyện thuộc 11 tỉnh, thành phố thí điểm hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra cấp ủy với thanh tra cấp huyện(8); 1/63 tỉnh, thành phố thí điểm hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra cấp ủy với thanh tra cấp tỉnh(9); 70/707 đơn vị cấp huyện thuộc 24 tỉnh, thành phố thực hiện hợp nhất văn phòng cấp ủy với văn phòng HĐND và UBND cấp huyện ở những nơi có điều kiện(10); 1/63 tỉnh, thành phố thực hiện tổ chức cơ quan tham mưu giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; 58/707 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc 15 tỉnh, thành phố thực hiện tổ chức cơ quan tham mưu giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện... 466/707 đơn vị thuộc 14 tỉnh, thành phố thực hiện mô hình trung tâm phục vụ hành chính công, cơ chế một cửa, một cửa liên thông cấp huyện(11).

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả, ưu điểm đạt được nói trên, thực tiễn cũng cho thấy, tổ chức bộ máy của HTCT Việt Nam còn những bất cập, hạn chế  như sau:

Một là, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và phương thức tổ chức, hoạt động giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức - đoàn thể nhân dân chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp.

Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đánh giá: “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp... Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt kết quả thấp”; “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp ủy cấp tỉnh, cấp ủy cấp huyện chưa cụ thể hóa đầy đủ; thiếu quy định khung quy chế làm việc của cấp ủy các cấp”(12).

Các mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT, nhất là giữa thường vụ cấp ủy và thường trực UBND, giữa một số ban và tổ chức đảng với nhau và với một số cơ quan nhà nước cùng cấp, giữa một số cơ quan nhà nước với nhau và với doanh nghiệp; giữa tập thể cơ quan lãnh đạo và thủ trưởng,... chưa được phân định rõ ràng, rành mạch. Thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, từng cấp, từng ngành chưa được chế định đồng bộ, chặt chẽ,làm cho tổ chức, bộ máy vận hành kém hiệu lực, hiệu quả, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, thưởng phạt không rõ ràng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn thừa nhận: “Việc hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy ở một số nơi thiếu kiên quyết, đồng bộ và chưa đạt mục tiêu đề ra; cá biệt có nơi còn nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa thật sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Xây dựng vị trí việc làm còn lúng túng, tiến độ triển khai còn chậm so với mục tiêu đề ra”(13).

Hai là, tổ chức bộ máy của các thiết chế trong hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đầu mối.

Tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay chưa thật sự tinh gọn; một số nhiệm vụ, đối tượng, lĩnh vực công tác còn trùng lắp, chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bộ máy tổ chức đảng song trùng với bộ máy chính quyền dẫn đến tình trạng trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, không phát huy tốt vai trò của bộ máy nhà nước trong nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy; đồng thời, làm cho bộ máy trở nên cồng kềnh, lãng phí, kém hiệu quả.

Kết quả trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước chưa đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân. Hoạt động của Quốc hội chưa thực sự chuyên nghiệp, tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tuy đã tăng lên theo từng nhiệm kỳ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội còn nhiều hạn chế nên chưa đáp ứng khối lượng công việc ngày càng nhiều, yêu cầu ngày càng cao về chất lượng.

Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước là thiết chế có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, một số quy định của Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan khác chưa được cụ thể hóa...

Chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước trên một số lĩnh vực chưa rõ; phân định chức năng, thẩm quyền quản lý, điều hành giữa Chính phủ (tập thể Chính phủ) và Thủ tướng Chính phủ chưa thật rõ ràng, rành mạch.

Việc tổ chức hệ thống tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân đã được đổi mới một bước theo Hiến pháp năm 2013, nhưng vẫn còn nhiều bất cập về cấu trúc bên trong. Tòa án cấp huyện dàn đều ở tất cả các huyện, kể cả những huyện có quy mô nhỏ hoặc mới được chia tách; đội ngũ thẩm phán bị dàn mỏng, phân tán, trong khi số lượng còn rất thiếu, có nơi xét xử không hết án, nhưng có nơi lại rất ít án...

Tổ chức chính quyền địa phương còn nặng về bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành của Trung ương, chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của từng địa phương. Mô hình tổ chức HĐND và UBND được thiết kế một cách tương đối đồng loạt, chưa thể hiện đặc điểm và yêu cầu quản lý nhà nước trên các địa bàn, lãnh thổ khác nhau và gần như không có sự thay đổi từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Tổ chức bộ máy của chính quyền tỉnh, thành phố, tuy có sự phân biệt giữa các địa phương có quy mô, tính chất khác nhau, trong quản lý hành chính ở đô thị và ở nông thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, nhưng sự khác biệt này vẫn chưa thực sự rõ nét cả về tổ chức và thẩm quyền.

Tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội còn cồng kềnh; một số nhiệm vụ của các tổ chức còn trùng lắp, chồng chéo; có biểu hiện nhà nước hóa về tổ chức (được tổ chức 4 cấp tương ứng các cấp hành chính nhà nước; trong đó, có hai cấp trung gian là cấp tỉnh, cấp huyện), nhiều đầu mối bên trong. Cán bộ làm công tác chuyên trách của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đang bị công chức hóa (ít dành thời gian gắn với phong trào hoạt động ở cơ sở và đoàn viên, hội viên). Việc sử dụng biên chế chưa tiết kiệm.

Ba là, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, chưa theo kịp những biến đổi của phát triển kinh tế - xã hội.

Tính kém hiệu quả của HTCT biểu hiện ở nhiều mặt, nổi bật là tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Mối quan hệ kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp chưa được xác lập rõ ràng. Khả năng tự kiểm soát, tự kiểm tra trong từng tổ chức, cơ quan còn yếu. Sự kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước mới chủ yếu tập trung vào chống vi phạm, mà chưa thật sự chú trọng đến phòng ngừa vi phạm. Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đã chỉ ra một trong những nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong tổ chức bộ máy của HTCT là mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của HTCT chưa được hoàn thiện; một số bộ phận, lĩnh vực chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung ương đã đặt ra mục tiêu: “Từ năm 2021 đến năm 2030: Hoàn thành việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới”; đồng thời, chỉ ra nhiệm vụ, giải pháp: “Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”(14).

 

Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị ở Việt Nam trong thời gian tới

Để hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể HTCT ở Việt Nam, trong thời gian tới, cần chú trọng một số giải pháp sau:

Thứ nhất, thống nhất về nhận thức.

Yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần thống nhất quan điểm và có quyết tâm chính trị lớn ở cấp cao của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, định hướng rõ ràng cũng như lộ trình thực hiện khoa học, hợp lý về một mô hình tổ chức bộ máy mới của HTCT. Cần ban hành các nghị quyết của Trung ương với các hướng dẫn cụ thể tới các cấp, bộ, ban, ngành, địa phương về vấn đề này. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, cán bộ, đảng viên trong hệ thống của Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về mô hình tổ chức bộ máy mới. Tổ chức thực hiện việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy mới trong thực tiễn, trên tinh thần nghiên cứu, thảo luận, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và triển khai từng bước, làm các nội dung dễ và đã sáng tỏ trước, tiến hành thí điểm các vấn đề phức tạp, khó khăn và tổng kết, đánh giá kỹ càng trước khi thực hiện đồng loạt. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan truyền thông đại chúng trong tuyên truyền về xây dựng mô hình tổ chức bộ máy mới.

Thứ haihoàn thiện bộ máy của các khối và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị.

Trong thời điểm hiện nay, cần tập trung sắp xếp tinh gọn, hoàn thiện các khối và các cơ quan, tổ chức trong từng khối nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giám sát, phản biện xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc sắp xếp, hoàn thiện theo hướng: 1- Bảo đảm sự đồng bộ giữa các khối và giữa các cơ quan, tổ chức trong khối; 2- Phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; 3- Tiếp tục tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế, giảm khâu trung gian; 4- Tăng cường hiệu quả cơ chế phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 5- Tiếp tục phân cấp, phân quyền đi đôi với xác định rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong bộ máy nhà nước.

Thứ ba, hoàn thiện thể chế, cơ chế, quy định, chính sách phù hợp.

Rà soát toàn bộ hệ thống quy định của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các luật và các văn bản của Nhà nước liên quan để sửa đổi, bổ sung phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới, song phải trên cơ sở Điều lệ Đảng, Hiến pháp, Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của từng tổ chức chính trị - xã hội hiện hành. Tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy của HTCT và chuẩn bị tốt cho việc sửa đổi Điều lệ Đảng, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và việc sửa đổi Hiến pháp vào thời điểm thích hợp. Theo dõi, bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức trong HTCT các cấp được xây dựng theo mô hình tổ chức bộ máy mới, coi trọng đánh giá hiệu quả hoạt động, có chủ trương, giải pháp đúng đắn, điều chỉnh kịp thời nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, bất cập, để các tổ chức đó tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.

Cần đặc biệt coi trọng và thực hiện tốt việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tốt (đủ phẩm chất, năng lực, trình độ) thích ứng với mô hình tổ chức bộ máy mới. Đổi mới chính sách cán bộ phù hợp với yêu cầu đổi mới, kiện toàn mô hình tổ chức bộ máy mới. Đẩy mạnh xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ theo chức danh cán bộ, bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần cán bộ theo chức danh cán bộ và vị trí việc làm; tiến hành rà soát, xử lý các văn bản hiện hành, xây dựng và ban hành các văn bản mới của Đảng về chính sách cán bộ theo chức danh cán bộ và vị trí việc làm. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện thí điểm các văn bản của Đảng về chính sách cán bộ, nhất là các văn bản mới ban hành, đúc rút kinh nghiệm đối với những quyết định cụ thể của từng loại văn bản; triển khai mạnh mẽ việc trả tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ, công chức theo chức danh cán bộ và vị trí việc làm. Phát huy mạnh mẽ, hiệu quả vai trò của nhân dân tham gia đổi mới chính sách cán bộ phù hợp với yêu cầu đổi mới, kiện toàn HTCT theo mô hình tổ chức mới.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Tăng cường lãnh đạo ủy ban kiểm tra và các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc của mình tiến hành hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát theo quy định, coi trọng hơn việc làm tốt công tác giám sát. Xây dựng chương trình, kế hoạch, xác định nội dung công tác kiểm tra, giám sát hằng quý, hằng năm, nhiệm kỳ; lựa chọn hình thức kiểm tra, giám sát phù hợp và triển khai thực hiện. Thực hiện tốt việc lãnh đạo kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát theo đúng quy định của Điều lệ Đảng; coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia công tác giám sát, kiểm tra việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy mới.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về khoa học tổ chức gắn với điều kiện thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay, có tính đến đặc điểm của tình hình thế giới và khu vực.

Thứ tư, đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức chính trị - xã hội.

Cần nhận thức rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong HTCT, Đảng lãnh đạo, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện HTCT gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành. Xây dựng nhà nước kiến tạo, chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ; nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp trên cơ sở phân định rõ ràng, rành mạch chức năng giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng; đồng thời, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của HTCT, mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, nâng cao chất lượng của cả HTCT.

Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và HTCT, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động nhân dân theo hướng thiết thực, lấy nhu cầu, lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân làm động lực quan trọng cho công tác vận động, tập hợp nhân dân; hướng mạnh về cơ sở, chú ý những nhân tố mới, những cách làm sáng tạo, có ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng./,

-----------------------------

* Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp quốc gia: “Mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong tình hình mới” (Mã số KX.04.39/21-25) thuộc Chương trình khoa học xã hội trọng điểm quốc gia giai đoạn 2021 - 2025.

(1) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 19 - 20
(2) Số liệu trong bài viết được nhóm nghiên cứu tổng hợp dựa trên báo cáo của các cơ quan, ban, bộ, ngành.
(3) Tổ chức bộ máy của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
- Tổ chức hành chính khối Đảng cấp tỉnh bao gồm các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, các đảng ủy khối và đảng ủy trực thuộc cấp tỉnh.
- Tổ chức hành chính khối Đảng cấp huyện bao gồm các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, các đảng ủy trực thuộc cấp ủy cấp huyện có biên chế chuyên trách.
- Tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh bao gồm các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và cơ quan hành chính khác ở cấp tỉnh.
- Tổ chức chính quyền địa phương cấp huyện bao gồm các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và cơ quan hành chính khác ở cấp huyện.
- Tổ chức hành chính khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh bao gồm các cơ quan tham mưu, giúp việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh.
- Tổ chức hành chính khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện bao gồm các cơ quan tham mưu, giúp việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện.
(4) Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Cà Mau.
(5) Lào Cai.
(6) Hải Phòng, Điện Biên, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Thuận, Trà Vinh.
(7) Hà Giang.
(8) Hải Phòng, Điện Biên, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Thuận, Trà Vinh.
(9) Hà Giang.
(10) Hải Phòng, Điện Biên, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Phú Yên, Kon Tum, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang.
(11) Hà Nội, Hải Phòng, Điện Biên, Lào Cai, Bắc Kạn, Bắc Giang, Quảng Trị, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk, Bình Phước, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang.
(12) Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/nghi-quyet-so-18-nqtw-ngay-25102017-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-mot-so-van-de-ve-tiep-568
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 184
(14) Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xii/nghi-quyet-so-18-nqtw-ngay-25102017-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-mot-so-van-de-ve-tiep-568