Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chế độ chính trị, tạo nền tảng vững chắc để phát triển đất nước nhanh, bền vững

(Mặt trận) - Qua gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây là thành quả có được từ sự ổn định chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được củng cố, chăm lo, vun đắp. Trước những thời cơ, thách thức trong tình hình mới, yêu cầu đặt ra là cần không ngừng chăm lo bồi đắp, bảo vệ, giữ gìn sự ổn định chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn ký ban hành 14 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Ủy ban MTTQ các cấp tỉnh Nam Định nâng cao vai trò giám sát của nhân dân

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân tham gia hoạt động giám sát cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an dự Ngày hội Văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, năm 2023 _Nguồn: baokontum.com.vn 

Ổn định chế độ chính trị là trạng thái của đời sống chính trị, mà trong đó không có “điểm nóng”, không có xung đột chính trị nội bộ, không có hành vi bạo lực, gây hấn trong xã hội nhằm thay đổi quyền lực. Một xã hội hòa bình, ổn định, tuân thủ theo luật pháp là nơi mà việc ra quyết định về phát triển đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dựa trên kết quả của các thủ tục, quy định được thể chế hóa, không phải thông qua việc sử dụng bạo lực, cưỡng chế. “Sự ổn định không thể có, nếu xã hội rối loạn do thiếu trật tự kỷ cương hoặc do bị áp đặt bởi những ý muốn chủ quan, những biện pháp quản lý thiếu dân chủ hoặc phản dân chủ của bộ máy quyền lực”(1).

Ổn định và phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau; giữ vững ổn định cho phát triển chẳng những có ý nghĩa trước mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. “Đảng cầm quyền và Nhà nước có vai trò quan trọng, trách nhiệm hàng đầu đối với ổn định của xã hội. Việc đưa ra các chính sách kinh tế, xã hội, đối nội, đối ngoại hợp lý, tạo được sự hưởng ứng của người dân là cơ sở quan trọng cho việc ổn định”(2).

Cần lưu ý: “Ổn định chính trị luôn mang tính lịch sử - cụ thể, được chế định bởi yếu tố thời đại, mô hình chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội… Không có sự đồng nhất về ổn định chính trị giữa chính thể đa đảng và chính thể một đảng duy nhất cầm quyền, giữa một quốc gia mới thoát khỏi chủ nghĩa thực dân và các nước tư bản - đế quốc, giữa quốc gia phòng vệ và quốc gia theo đuổi tư tưởng đế chế, giữa cường quốc và quốc gia tầm trung, quốc gia nhỏ yếu”(3).

Ổn định chế độ chính trị, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì quốc phòng - an ninh, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là những trụ cột chính cấu thành nên toàn bộ sự vận hành của một quốc gia; trong đó, ổn định chính trị có vai trò nền tảng, quyết định. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới hiện nay cho thấy, bất ổn chính trị tạo ra sự rạn nứt giữa các lực lượng chính trị, khiến cho các giai tầng xã hội bị cuốn vào xung đột, chiến tranh, làm hao tổn nguồn lực quốc gia, các thế lực bên ngoài can thiệp vào độc lập và chủ quyền dân tộc, bỏ lỡ cơ hội phát triển… Ổn định chính trị luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế liên tục, xã hội ổn định, giữ vững an ninh quốc gia, có chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ; bởi lẽ, ổn định chính trị bảo đảm cho sự gắn kết giữa các lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, thực hiện chính sách đối ngoại một cách chặt chẽ, nhất quán.

Chế độ chính trị ở nước ta dựa trên 3 chủ thể: Đảng - Nhà nước - nhân dân với mối quan hệ chính trị - pháp lý là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Do đó, sự ổn định chế độ chính trị của nước ta là thành quả của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và sự chung tay, đồng lòng của người dân.

Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố quyết định sự ổn định chế độ chính trị ở nước ta.

Sự kiện thành lập Đảng vào ngày 3-2-1930 và Chánh cương vắn tắt được xây dựng ngay từ khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản) chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng vừa mới được thành lập - nhưng đã giương cao được ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết kịp thời tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở bảo đảm cho quá trình tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc để hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, con đường cách mạng Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Hơn 94 năm qua, Đảng lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi và viết nên những trang sử vàng chói lọi, tô thắm thêm lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!”(4).

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ, có những bước phát triển đột phá trên tất cả các lĩnh vực. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(5).

Có được những thành tựu to lớn đó là do Đảng ta không ngừng đổi mới, tự xây dựng, tự chỉnh đốn để ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sứ mệnh lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuyên suốt thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục. Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng mang tính định hướng về nhiệm vụ này để các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai thực hiện một cách quyết liệt, có hiệu quả(6). Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, từ chủ đề Đại hội, bài học kinh nghiệm, đến quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ trọng tâm đều nhấn mạnh đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, tạo nên một chỉnh thể với nội dung sâu sắc và phạm vi toàn diện hơn.

Hai là, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước không ngừng được nâng cao, toàn diện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực.

Sau khi cách mạng thành công, Đảng lãnh đạo nhân dân tổ chức ra Nhà nước để thay mặt nhân dân quản lý đất nước. Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, nhưng không làm thay Nhà nước. “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp”(7).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước không ngừng được nâng cao, toàn diện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện theo hướng ngày càng tiếp cận đầy đủ hơn với yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng các hình thức sở hữu, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; việc xã hội hóa, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào cung ứng các dịch vụ công giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, tư vấn pháp luật... đã mở rộng, thu hút sự tham gia tích cực của người dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực này. Quốc hội, Chính phủ có nhiều đổi mới cả về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động, tập trung vào xây dựng thể chế, quản lý vĩ mô, quyết định những vấn đề lớn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Lĩnh vực tư pháp thực hiện nhiều đổi mới tổ chức và hoạt động theo chiến lược cải cách tư pháp để nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân...

Ba là, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự ổn định chế độ chính trị ở nước ta.

Một xã hội có nền chính trị ổn định là một xã hội trong đó người dân hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống chính trị, tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân một cách chủ động và mang tính tích cực xã hội cao. Ổn định chính trị tạo nên một xã hội cân bằng và thúc đẩy sự chung sống hài hòa, đoàn kết, hợp tác để cùng phát triển trong cộng đồng. “Ổn định luôn luôn đi liền với niềm tin của nhân dân. Tạo sự ổn định phải đi liền với tạo dựng niềm tin của nhân dân vào những người lãnh đạo, chỉ huy”(8).

Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. Nhân dân tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, một lòng đi theo Đảng. Niềm tin của nhân dân biến thành hành động cách mạng, thành ý chí quyết tâm, đã tạo nên sức mạnh vô địch trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chú trọng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy trên mọi lĩnh vực, góp phần quan trọng vào những thành tựu phát triển của đất nước. Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng và đi vào thực chất; từng bước phát huy vai trò của nhân dân trong quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước; quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân được tôn trọng, bảo đảm; chú trọng nâng cao dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp, nhất là dân chủ ở cơ sở, ngày càng coi trọng bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền; các cấp ủy đảng, chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các ý kiến góp ý và kịp thời giải quyết những kiến nghị, bức xúc của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, vận động, tập hợp, khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân; phát huy tốt vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, các tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng cùng Đảng, Nhà nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được chính là kết tinh sức sáng tạo, sự đồng lòng của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Giữ vững ổn định chính trị là điều kiện sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững môi trường ổn định chính trị, bảo vệ bền vững chế độ chính trị, cần làm tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, Đảng phải đổi mới,bổ sung và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền để xứng đáng với sứ mệnhcao cả mà nhân dân tin tưởng giao phó.

Đảng ta là một đảng mác-xít chân chính, luôn coi tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của mình. Bởi lẽ, một đảng duy nhất cầm quyền chỉ có thể giữ vững được vị trí, vai trò lãnh đạo, được nhân dân tin tưởng, yêu mến khi không ngừng tự đổi mới và tự chỉnh đốn để có đủ trình độ, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu trong điều kiện, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động đòi hỏi Đảng càng phải trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Thông qua việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, đường lối đó trong thực tiễn, quyền lực chính trị và vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không ngừng được củng cố và nâng cao. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng phải đi trước mở đường; đặc biệt là cần vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào bối cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta, bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới.

Tiếp tục kiện toàn mô hình tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, khoa học; bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững về chính trị, tư tưởng, trong sạch về đạo đức, sâu về trình độ, năng lực, nghiêm về kỷ luật; đồng thời, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, kiểm soát, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và những hạn chế, yếu kém tồn tại trong Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên tự giác rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, góp phần để Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”.

Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh mới.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, đã đưa ra các quan điểm, định hướng và nhấn mạnh 10 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững; tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam(9).

Thứ ba, phát huy quyền làm chủ, khơi dậy sức mạnh của nhân dân.

Cần tập trung xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến quyền làm chủ của người dân; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định để người dân được phát huy quyền làm chủ của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng, Nhà nước phải bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp ý xây dựng đường lối, chính sách, quyền lựa chọn người đại diện cho mình và quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(10).

Nhân dân hiểu và biết cách thực hành quyền làm chủ của mình; tích cực tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; góp ý và phản biện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nhân dân tăng cường niềm tin đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết với Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động để thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động, đoàn kết nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng với các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp trong việc tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân. Phối hợp kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chủ trương, đường lối; giải quyết kịp thời, hiệu quả kiến nghị, bức xúc của nhân dân ngay từ cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tích cực tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân ở trong nước và nước ngoài để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

TS Phạm Ngọc Hùng - TS Dương Thị Hà
Tạp chí Cộng sản - Học viện Hành chính quốc gia

-----------------------

(1) Nguyễn Phú Trọng: Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 18
(2) Nguyễn Phú Trọng: Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Sđd, tr. 17
(3) Đoàn Minh Huấn: “Phương thức bảo đảm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1.003, tháng 12-2022, tr. 19
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 400
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 103 - 104
(6) Ngày 31-12-2011, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-3-2012, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, tháng 2-2013, Bộ Chính trị quyết định thành lập “Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng” trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban; đồng thời, lập lại Ban Nội chính Trung ương, làm cơ quan thường trực; và mới đây, ngày 16-9-2021, Bộ Chính trị quyết định bổ sung chức năng, nhiệm vụ phòng, chống tiêu cực cho Ban Chỉ đạo. Ngày 30-10-2016, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Ngày 25-10-2021, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII ban hành Quy định số 37-QĐ/TW thay thế Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về những điều đảng viên không được làm”. Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Ngày 18-5-2021, Bộ Chính trị khóa XIII đã chỉ đạo sơ kết việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW và tổ chức Hội nghị toàn quốc để phổ biến kết quả, và quyết định ban hành Kết luận số 01-KL/TW, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Ngày 25-10-2021, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 196 - 197
(8) Nguyễn Phú Trọng: Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Sđd, tr. 19
(9) Xem: Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-27-NQ-TW-2022-tiep-tuc-xay-dung-Nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-giai-doan-moi-541092.aspx
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27 - 28