Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

(Mặt trận) - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm xây dựng một đất nước dân chủ, kỷ cương và phục vụ nhân dân. Việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” là phương thức thể hiện quan điểm ấy của Đảng.

MTTQ tỉnh Lào Cai lựa chọn nội dung, hình thức giám sát phù hợp

Phiên họp thứ 40 Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Sắp xếp bộ máy cần đảm bảo quyền lợi người lao động

Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri

 Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an dự Ngày hội Văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, năm 2023 _Nguồn: baokontum.com.vn

Dân chủ và thực hành dân chủ trong lịch sử

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau thể hiện những bước tiến của dân chủ: dân chủ nguyên thủy (trong chế độ cộng sản nguyên thủy); dân chủ chủ nô (trong chế độ chiếm hữu nô lệ); dân chủ tư sản (trong chế độ tư bản chủ nghĩa); và ngày nay là dân chủ xã hội chủ nghĩa (trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN)). Riêng chế độ phong kiến không được coi là có dân chủ vì sự thống trị của giai cấp phong kiến được khoác lên chiếc áo thần bí của thế lực siêu nhiên, ý thức về dân chủ và đấu tranh cho dân chủ của người dân không có tiến bộ nào đáng kể so với chế độ chiếm hữu nô lệ.

Trước khi nền dân chủ XHCN xuất hiện, nền dân chủ tư sản với tính cách là một thiết chế nhà nước đã ra đời gắn liền với thắng lợi của cách mạng tư sản chống chế độ phong kiến ở Tây Âu (kéo dài từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII). Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chống lại thần quyền, đòi tự do, bình đẳng, bình quyền và bảo vệ chân lý khoa học mà nòng cốt là các nhà tư tưởng đại diện cho giai cấp tư sản (tiêu biểu là Cô-péc-ních, Bru-nô, Sếch-xpia, Xéc-van-tét, Lê-ô-na Đơ Vanh-xi, Mi-ken Lăng-giơ, Đề-các-tơ, Vôn-te, Rút-xô...) đã giáng những đòn quyết định dẫn tới sự cáo chung của chế độ phong kiến. Ở thời kỳ đó, nền dân chủ được hình thành tương đối đầy đủ trong quá trình đấu tranh cách mạng tư sản - một nấc thang quan trọng của tiến bộ lịch sử loài người. Sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản gắn liền với sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với quá trình đấu tranh giai cấp quyết liệt của giai cấp tư sản nhằm xóa bỏ phương thức sản xuất phong kiến, lật đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến. Nền dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất. Nền dân chủ tư sản và quan điểm, tư tưởng dân chủ của giai cấp tư sản thể hiện sâu sắc bản chất, mục đích, lợi ích tư sản. Dân chủ tư sản là công cụ, phương thức, thủ đoạn để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì lợi ích kinh tế, quyền lực thống trị của giai cấp tư sản, chế độ tư bản chủ nghĩa, thể hiện rõ nhất ở những thể chế, thiết chế, cơ chế chính trị trong xã hội. Bởi vậy, nền dân chủ tư sản ra đời, phát triển mấy trăm năm ở hầu hết các nước phát triển, dù được ngụy trang che đậy và điều chỉnh, đến nay đã có nhiều tiến bộ, song vẫn lộ rõ là hình thức quyền lực tập trung của giai cấp tư sản, là công cụ của nền chuyên chính tư sản, bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động ở nhiều nước trên thế giới giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập nhà nước XHCN và nền dân chủ XHCN (dân chủ vô sản) để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân, xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân. Sự ra đời của nền dân chủ XHCN đánh dấu bước phát triển mới về chất, có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, trong đó có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ trước đó, đồng thời tự bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới. Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng, được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã hội.

Quan điểm của Đảng ta về dân chủ, thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(1).

Trong nhiều kỳ đại hội, Đảng ta đều rất quan tâm đến việc đề ra đường lối, chủ trương trên cơ sở phát huy dân chủ tập thể, trí tuệ và sức mạnh của toàn dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó nhấn mạnh phát huy dân chủ nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước. Sau gần 40 năm đổi mới, nhận thức về dân chủ XHCN ở nước ta ngày càng được đổi mới, phát triển và hoàn thiện đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là do nhân dân làm chủ. Dân chủ được đưa vào mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam để toàn Đảng, toàn dân cùng thực hiện, đó là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”(2). Dân chủ là mục tiêu của sự phát triển đất nước thể hiện ở việc hướng tới xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, không có áp bức, bóc lột, bất công; bảo đảm và phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội). Dân chủ là động lực của sự phát triển đất nước thể hiện khi nhân dân lao động được làm chủ sẽ phát huy cao độ tính tích cực, tự giác của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giải phóng sức lao động, phát triển lực lượng sản xuất, mọi tiềm năng của đất nước được phát huy, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn cho sự phát triển đất nước. Vì vậy, có thể khẳng định bản chất của chế độ xã hội ở Việt Nam là dân chủ, bảo đảm cho mọi người dân được thực hành dân chủ, đồng thời duy trì trật tự, kỷ cương, thượng tôn pháp luật, nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân.

Vì dân chủ có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã quan tâm lãnh đạo việc thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN. Dân chủ được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm trên cơ sở cơ chế, chính sách, quy định, nguyên tắc và biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho mọi người dân đều được thực hiện quyền dân chủ. Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế là hai mặt của một thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng, không đối lập với nhau, là vấn đề có tính quy luật trong quản lý xã hội. Mối quan hệ biện chứng thể hiện ở chỗ, khi pháp chế được tăng cường thì các quyền dân chủ của nhân dân sẽ được bảo đảm và được bảo vệ bằng pháp luật. Khi pháp luật được mọi người cùng tuân thủ một cách thượng tôn thì khi ấy dân chủ đã được thực hành một cách tự nhiên và thực chất. Dân chủ nếu không có kỷ cương, không dựa trên luật pháp thì sẽ dẫn đến sự rối loạn, mất trật tự, xã hội khó phát triển một cách bình đẳng, có thể dẫn tới dân chủ vô tổ chức, thậm chí là cơ hội làm phát sinh hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại lợi ích của cá nhân và xã hội, làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc và lúc đó lại trở thành phản dân chủ. Vì thế, cùng với dân chủ, việc tăng cường pháp chế gắn liền với quản lý mọi hoạt động của xã hội bằng pháp luật, không để một lĩnh vực nào của xã hội thiếu sự điều chỉnh của pháp luật hoặc không được pháp luật điều chỉnh. Thông qua đó, góp phần bảo đảm kỷ cương xã hội, làm cho những quy định pháp luật được duy trì trong trật tự xã hội, từ đó góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm... Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(3). Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội”(4). Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là một trong những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và xử lý tốt trong giai đoạn tới(5). Bởi đây là mối quan hệ rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn, nó phản ánh bản chất của chế độ ta, là thuộc tính tự nhiên của Nhà nước pháp quyền XHCN. Pháp chế XHCN khi được xác lập sẽ có sức mạnh góp phần thiết lập trật tự, kỷ cương, thúc đẩy và bảo vệ nền dân chủ XHCN, chống mọi hành vi phá hoại quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó thúc đẩy xã hội phát triển. Do đó, tăng cường pháp chế đồng nghĩa với việc tăng cường xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật, quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật để bảo đảm mọi lĩnh vực, mọi người dân đều được thực hiện quyền dân chủ của mình theo quy định của pháp luật.

Đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đối thoại trực tiếp với đại diện bí thư chi bộ, trưởng thôn và người có uy tín của các huyện miền núi và các huyện đồng bằng có đồng bào dân tộc thiểu số _Ảnh: quangngai.dcs.vn 

Thực tiễn thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đảng ta khẳng định sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Sự nghiệp đó chỉ hoàn thành được mục tiêu khi người dân ý thức được quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với tinh thần dân chủ, thượng tôn pháp luật. Vì vậy, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội sẽ góp phần đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn quá trình lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn xác định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Vấn đề này ngày càng được thể hiện sáng rõ trong nhận thức tư duy và hành động. Trên lĩnh vực xây dựng thể chế, chính sách, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội được ban hành, thể hiện trong Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác(6). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự quyết tâm, nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị, các quy định pháp luật của Nhà nước ta ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, tạo điều kiện tối đa cho việc thực hành dân chủ. Người dân ngày càng được tham gia nhiều hơn, trực tiếp hơn vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, người dân cũng được pháp chế XHCN bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng; khi quyền và lợi ích bị xâm phạm thì được pháp luật bảo vệ.

Việc thực hành dân chủ của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các cấp ủy, chính quyền đã tích cực lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân. Dân chủ trong Đảng, Nhà nước, trong các tổ chức và xã hội tiếp tục được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã phát huy tốt vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước. Việc tăng cường pháp chế XHCN được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật được nâng lên. Hoạt động giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên luôn được chú trọng, tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, góp phần bảo đảm kỷ cương xã hội. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước, lực lượng công an đã quan tâm xây dựng và duy trì một xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để người dân có điều kiện làm ăn, phát triển kinh tế - xã hội; từng bước xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật và các điều kiện thuận lợi để người dân được tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự; đồng thời, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của nhân dân khi bị xâm phạm.

Bên cạnh những thành tựu, ưu điểm đạt được, thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời gian qua cho thấy, việc giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang gặp phải một số khó khăn, thách thức và hạn chế. Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, thiếu ổn định, nhiều tầng nấc; chất lượng của một số văn bản pháp luật chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn. Vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được đầy đủ cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật hiệu quả. Kỷ luật, kỷ cương trong thi hành công vụ và trong đời sống xã hội còn lỏng lẻo, dẫn đến vẫn còn tình trạng coi thường pháp luật. Ý thức thượng tôn pháp luật chưa trở thành thói quen thường trực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn vẫn còn không ít hành vi vi phạm, cản trở hoặc hạn chế quyền làm chủ của nhân dân; lợi ích chính đáng của nhân dân nhiều lúc chưa được bảo đảm và bảo vệ một cách đầy đủ. Trong khi đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phần tử xấu tiếp tục phá hoại việc thực hành dân chủ và pháp chế, kỷ cương xã hội, lợi dụng những vụ việc phức tạp để kích động phong trào “bất tuân dân sự” hòng chuyển hóa mâu thuẫn, xung đột dân sự thông thường thành hành vi chống phá, đối đầu với chính quyền. Đây là âm mưu thâm độc hòng cổ xúy cho thái độ, hành vi coi thường pháp luật, kỷ cương nhằm vô hiệu hóa pháp chế XHCN ở nước ta, nhằm mục đích lật đổ chính quyền nhân dân, đe dọa trực tiếp công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập nêu trên trước hết là do nhận thức của chúng ta chưa đầy đủ và chưa có nhiều kinh nghiệm xây dựng pháp luật XHCN trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện trong điều kiện chuyển đổi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nên khó tránh khỏi hạn chế, bất cập. Việc thường xuyên rà soát sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết, nhưng cũng làm cho hệ thống pháp luật thiếu ổn định, thiếu đồng bộ trong một giai đoạn nhất định. Nhiều cơ chế mới được vận hành nên khó dự báo đầy đủ các yếu tố tác động dẫn tới một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung hoặc khi ban hành chưa phát huy được hiệu lực trong thực tiễn. Một bộ phận nhân dân chưa ý thức đầy đủ, chưa nâng cao năng lực thực hành dân chủ của mình, trong khi đó năng lực thực thi pháp luật của một số cán bộ chưa cao. Cơ chế bảo đảm giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội còn chưa phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của các chủ thể.

Một số giải pháp góp phần thực hiện tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội trong tình hình mới

Để góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN theo chủ trương, định hướng đã đề ra tại Đại hội XIII của Đảng, thời gian tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản như sau:

Thứ nhất,tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trước hết là trong các tổ chức chính trị - xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của mối quan hệ thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Cần thống nhất nhận thức và tuyên truyền để toàn dân hiểu rõ dân chủ XHCN là bản chất của chế độ chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với những nội dung hết sức quan trọng đã liên tục được khẳng định trong Nghị quyết của Đảng, đó là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể thực hiện quyền lực chung của xã hội. Mọi người dân đều có quyền thực hành dân chủ theo quy định của pháp luật, thượng tôn pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, không ai có quyền đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật.

Cùng với việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội, phải tiếp tục nâng cao tính nêu gương trong tuân thủ kỷ cương, pháp luật, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ XHCN của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên. Cần tiếp tục bảo đảm mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia góp ý kiến, bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu từ nêu sáng kiến, tham gia phản biện, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện, trên cơ sở đó đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích của nhân dân.

Thứ hai,tiếp tục cải cách tư pháp gắn với nâng cao năng lực thực thi pháp luật, xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2-1-2002, của Bộ Chính trị, về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã xác định phải: Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu quan trọng của cải cách tư pháp là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN. Lực lượng vũ trang nhân dân có vai trò trọng yếu trong cải cách tư pháp, do đó phải luôntuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng và Nhà nước; tích cực tham gia vào quá trình cải cách tư pháp; mọi hoạt động tư pháp phải đạt được mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm đến quyền thực hành dân chủ, đến lợi ích chính đáng của nhân dân phải được nghiêm trị. Thực hiện tốt điều này còn góp phần đấu tranh, phản bác một cách hiệu quả nhất các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân chủ để chống phá cách mạng nước ta.

Thứ ba,tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng công an nhân dân trong giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi “phi chính trị hóa, dân sự hóa” lực lượng công an nhân dân. Trước hết và quan trọng nhất là phải xây dựng lực lượng công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn đề cao tinh thần trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15-3-2018, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, khơi dậy và phát huy trách nhiệm của nhân dân tham gia ngày càng tốt hơn, nhiều hơn vào phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc từ cơ sở và ngay tại cơ sở. Đồng thời, lực lượng công an nhân dân phải thực sự là chỗ dựa tin cậy của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân; gương mẫu trong tuân thủ pháp luật, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, kịp thời phát hiện những hành vi xâm hại đến lợi ích của nhân dân, trừng trị nghiêm khắc những kẻ lợi dụng dân chủ để phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư,tiếp tục rà soát, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về an ninh, quốc phòng; xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân gắn với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Cùng với đó, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội gắn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, như vấn đề chung của dân chủ và pháp chế trong lịch sử và hiện tại; nghiên cứu quá trình phát triển nhận thức, thực trạng mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN./.

-----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232
(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 28
(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Ttđd, tr. 28 - 29
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 170
(5) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, t. I,
tr. 119
(6) Hiến pháp năm 1980 (Điều 12); Hiến pháp năm 1992 (Điều 12); Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20-4-2007, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 8-9-1998, của Chính phủ, “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan”; Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTƯMTTQVN, ngày 14-7-2008, của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về “Hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở do Quốc hội (khóa XV) ban hành ngày 10-11-2022