Báo cáo kết quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ sau kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV đến kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV

(Mặt trận) -Ngày 18 tháng 10 năm 2021, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành báo cáo số: 407/BC-MTTW-ĐCT về kết quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ sau kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV đến kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV. Toàn văn báo cáo như sau:

MTTQ tỉnh Lào Cai lựa chọn nội dung, hình thức giám sát phù hợp

Phiên họp thứ 40 Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Sắp xếp bộ máy cần đảm bảo quyền lợi người lao động

Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri

ỦY BAN TRUNG ƯƠNG
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
ĐOÀN CHỦ TỊCH

Số: 407/BC-MTTW-ĐCT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

                     Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2021

         BÁO CÁO
Kết quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ sau kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV đến kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV

 

Thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam năm 2015 và khoản 3 Điều 20 của Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam trân trọng thông báo kết quả hoạt động giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam từ sau kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV đến kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV (từ tháng 11/2020 đến hết tháng 9/2021) như sau:

I. KHÁI QUÁT VIỆC THỰC HIỆN

Từ sau kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV đến kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (sau đây viết tắt là Ban Thường trực) và Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội đã hoàn thành 08 nội dung giám sát theo kế hoạch: (1) Giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; (2) Giám sát việc thực hiện công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; (3) Giám sát và kiến nghị sửa đổi Luật đất đai; (4) Giám sát việc thực hiện chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; (5) Giám sát việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2020; (6) Giám sát việc thực hiện Nghị định số 157/2016/NĐ-CP ngày 24/11/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh Cựu chiến binh; (7) Giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; (8) Giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN

1. Giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026

Theo quy định của Luật MTTQ Việt Nam năm 2015; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về bầu cử; Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 256/KH-MTTW-BTT ngày 25/01/2021 về kiểm tra, giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 để triển khai các hoạt động giám sát. Đồng thời phối hợp với Hội đồng bầu cử Quốc gia giám sát công tác bầu cử.

 Ở Trung ương, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành quyết định thành lập 09 đoàn kiểm tra, giám sát; tổ chức thành 02 đợt, kiểm tra, giám sát tại 31 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do các đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam làm Trưởng đoàn; thành viên tham gia gồm: đại diện lãnh đạo, chuyên viên một số ban, đơn vị, Ủy viên Đoàn Chủ tịch hoặc thành viên Hội đồng tư vấn của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, đại diện các tổ chức chính trị - xã hội và một số cơ quan hữu quan liên quan cùng tham gia.

Ở địa phương, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chủ động ban hành kế hoạch, quyết định kiểm tra, giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026[1].

Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam các cấp đối với công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã được tiến hành nghiêm túc, tiết kiệm, hiệu quả, đúng nội dung, tiến độ và yêu cầu đề ra. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ bầu cử của các tổ chức phụ trách bầu cử và MTTQ Việt Nam các cấp, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương triển khai công tác bầu cử đảm bảo đúng quy định pháp luật và tiến độ đề ra.

Sau khi thực hiện công tác giám sát, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã có báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra, giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026[2] và có một số kiến nghị, cụ thể gửi Ban Chỉ đạo công tác bầu cử, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan liên quan.

 2. Giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp

Thực hiện Chương trình phối hợp số 02/CTPH-MTTQ-TTCP-BTP-HLG-LĐLS ngày 11/10/2018 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam về giám sát và nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở địa phương, cơ sở. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 247/KH-MTTW-BTT ngày 15/01/2021 về giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp năm 2021.

Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức hội nghị tập huấn, triển khai trực tuyến cho Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp[3], đồng thời ban hành văn bản và đề cương đề nghị UBND 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo kết quả việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong thời gian từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/6/2021. Trên cơ sở báo cáo việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Chủ tịch UBND cấp tỉnh và báo cáo của Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về kết quả giám sát đối với chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã xây dựng báo cáo giám sát chuyên đề, trong đó có một số đánh giá, cụ thể như:

Chủ tịch UBND cấp huyện và cấp tỉnh đã chấp hành những quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và những văn bản hướng dẫn thi hành; đã kiện toàn Ban tiếp công dân, bố trí trụ sở tiếp dân theo quy định, có kế hoạch, lịch tiếp công dân, sau khi tiếp dân cơ bản đã ban hành văn bản chỉ đạo giải quyết theo quy định của Luật Tiếp Công dân. Các địa phương làm tốt công tác lãnh, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và tập huấn, tuyên truyền các quy định của pháp luật về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc tiếp nhận, phân loại đơn khiếu nại, tố cáo ở cấp tỉnh, cấp huyện cơ bản bảo đảm chính xác theo quy định; việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền của Chủ tịch UBND các cấp đã chấp hành theo quy trình, thủ tục đã được quy định.

Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền một số địa phương chưa chỉ đạo sát sao, quyết liệt, thường xuyên công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Một số Chủ tịch UBND các cấp còn để xảy ra một số thiếu sót trong thực hiện các quy định về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do tình hình dịch bệnh COVID-19 phức tạp, đa số Chủ tịch UBND các cấp chưa bảo đảm số ngày tiếp công dân định kỳ theo quy định của Luật Tiếp công dân[4]; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của chủ tịch UBND nhiều địa phương chưa bảo đảm quy định pháp luật về quy trình, thời hạn giải quyết; tỷ lệ vụ việc giải quyết quá thời hạn còn nhiều[5]; tỷ lệ khiếu nại, tố cáo đúng và đúng một phần nhất là ở cấp huyện tương đối cao[6] . Chất lượng giải quyết của cơ sở, cấp huyện nhiều nơi còn hạn chế; một số cán bộ làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp xã, cấp huyện còn thiếu kinh nghiệm, nghiệp vụ còn hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Một số vụ việc các đơn vị cấp huyện chưa tập trung giải quyết dứt điểm, chưa xem xét hết các căn cứ, đề nghị công dân nêu ra, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết, dẫn đến công dân có đơn vượt cấp; công tác phối hợp giữa các cơ quan trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc, có nơi, có việc còn chưa thống nhất và kịp thời; công tác đối thoại của Chủ tịch UBND các cấp với người khiếu nại chưa thực sự hiệu quả. Một số nơi chưa coi trọng dân vận chính quyền, chưa chủ động phối hợp với MTTQ Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức luật gia, luật sư từ sớm, từ xa khi phát sinh vụ việc phức tạp mới thông tin đến MTTQ Việt Nam. Một số vụ việc nhất là những vụ việc đông người, phức tạp kéo dài dù đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo nhưng chưa được giải quyết dứt điểm có nguy cơ trở thành các điểm nóng về an ninh trật tự...

Sau giám sát, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã có báo cáo giám sát[7] và kiến nghị gửi các cơ quan có thẩm quyền, cụ thể:

(1) Đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng

Chỉ đạo Thường trực các tỉnh, thành ủy tăng cường tiếp xúc trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân để chủ động nắm bắt và giải tỏa tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hạn chế khiếu nại, tố cáo; tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân; tăng cường kiểm tra, xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu về trách nhiệm tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cần bổ sung chế tài xem xét trách nhiệm của người đứng đầu nếu không tập trung giải quyết vụ việc phức tạp, đông người, kéo dài.

(2) Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Chỉ đạo các Ủy ban, Hội đồng dân tộc, cơ quan của Quốc hội tổ chức giám sát việc thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, nhất là đối với Chủ tịch UBND các cấp nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiệu quả trong tổ chức thực hiện chỉ đạo.

Chỉ đạo nghiên cứu, xem xét sửa đổi Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Đất đai nhằm đảm bảo hạn chế tối đa khiếu nại, tố cáo, bảo đảm tính khả thi và có cơ sở xử lý đối với những vi phạm quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, cụ thể:

Nghiên cứu, xem xét sửa đổi Luật Tiếp công dân cho phù hợp với Luật tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân của Chủ tịch UBND các cấp theo hướng tiếp tục hoàn thiện quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong tiếp công dân, giải quyết vụ việc phức tạp, đông người, kéo dài đảm bảo tính khả thi; quy định cho Chủ tịch UBND các cấp ủy quyền cho cấp phó của mình tiếp công dân trong một số trường hợp đặc biệt cho phù hợp với thực tiễn và quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đồng thời bổ sung quy định xử lý trách nhiệm đối với những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm tiếp công dân làm cơ sở xem xét, xử lý trách nhiệm đối với Chủ tịch UBND các cấp khi không thực hiện tiếp công dân, để xảy ra vụ việc bức xúc, đông người, kéo dài.

Nghiên cứu xem xét sửa đổi Luật Khiếu nại về thời hạn giải quyết khiếu nại đối với những vụ khiếu nại liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư cho phù hợp với thực tiễn để việc giải quyết khiếu nại đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Bổ sung quy định bắt buộc tổ chức đối thoại giữa người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và người khiếu nại trong quy trình giải quyết khiếu nại kể cả giải quyết khiếu nại lần đầu (Luật hiện hành mới quy định đối với giải quyết khiếu nại lần 2), thành phần tham gia đối thoại phải có đại diện cơ quan MTTQ Việt Nam cùng cấp hoặc luật sư bảo vệ người khiếu nại hoặc đại diện tổ chức đoàn thể mà người khiếu nại là hội viên; bổ sung quy định trong Luật những chế tài xử lý đối với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại vi phạm quy trình và thời hạn giải quyết.

Nghiên cứu xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, trong đó chú trọng một số quy định cụ thể về trường hợp cơ quan Nhà nước phải có trách nhiệm giải trình với người dân trong quá trình thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quy định xác định rõ thời hạn để UBND cấp xã tiến hành xác nhận các giấy tờ có liên quan đến việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; quy định về hoàn thiện hồ sơ cơ sở dữ liệu điện tử về đất đai và đăng ký đất đai điện tử; bổ sung các quy định về vai trò "phản biện xã hội", giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về đất đai của MTTQ Việt Nam, về trách nhiệm tiếp nhận, tiếp thu và giải trình của cơ quan nhà nước khi nhận được ý kiến của người dân...(Nội dung cụ thể có văn bản kiến nghị riêng).

Nghiên cứu bổ sung các quy định giải quyết khiếu nại về đất đai, khiếu nại hành chính để Tòa án nhân dân giải quyết.

(3) Đề nghị Thường trực Chính phủ

Chỉ đạo rà soát có biện pháp khắc phục những vướng mắc bất cập trong chính sách, quy định của luật, nghị định, thông tư là nguyên nhân dẫn đến khiếu nại, tố cáo như những quy định liên quan đến đầu tư xây dựng, kinh doanh, quản lý nhà chung cư ở các thành phố lớn; những khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý đất đai nông, lâm trường, giao đất, giao rừng ở các tỉnh miền núi, Tây Nguyên; những khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc đầu tư, xây dựng, chuyển đổi mô hình quản lý chợ và trung tâm thương mại và những khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý đất đai, bồi thường, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư ở các địa phương.

Chỉ đạo Thanh tra Chính phủ, các bộ, cơ quan tham mưu hoàn thiện thể chế, pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Khắc phục những vướng mắc bất cập từ các quy định và tổ chức thực hiện chưa đúng các quy định của pháp luật dẫn đến khiếu nại, tố cáo.

Tiếp tục chỉ đạo, kiểm tra các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; khắc phục những hạn chế trong tổ chức thực hiện, nâng cao trách nhiệm chất lượng giải quyết của địa phương, cơ sở.

(4) Đề nghị Thường trực tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương

Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo…Chỉ đạo xem xét trách nhiệm đối với các đồng chí Chủ tịch UBND các cấp trên địa bàn đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những quy định của pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, các vụ việc đông người, phức tạp, kéo dài ở địa phương.

Thực hiện trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy theo Quy định số 11-QĐi/TW của Bộ Chính trị, thực hiện lãnh đạo nâng cao trách nhiệm trong giải quyết các vụ việc còn có ý kiến khác nhau, các vụ việc đông người phức tạp kéo dài ở địa phương.

Chỉ đạo tạo điều kiện cho MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, Hội luật gia, Đoàn luật sư tham gia công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, bảo đảm việc giải quyết theo đúng pháp luật.

(5) Đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Nghiêm chỉnh thực hiện; chỉ đạo, kiểm tra các sở, ngành và UBND các cấp dưới thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, công tác hòa giải ở cơ sở, thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định pháp luật; tập trung giải quyết những khiếu nại, tố cáo liên quan đến đầu tư xây dựng, kinh doanh, quản lý nhà chung cư (đối với các đô thị), những khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý, giao đất, giao rừng (đối với các tỉnh miền núi, Tây nguyên), những khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc đầu tư, xây dựng, chuyển đổi mô hình quản lý chợ và trung tâm thương mại và những khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý đất đai, bồi thường, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư; Tiếp công dân định kỳ bảo đảm số ngày, giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo đảm đúng quy trình, thời hạn theo quy định, không để các vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức tạp, phát sinh thành điểm nóng gây phức tạp tình hình về an ninh, trật tự; kiểm tra công vụ, xử lý trách nhiệm đối với thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, Chủ tịch UBND cấp dưới không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm các quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

3. Giám sát và kiến ngh sửa đổi Luật Đất đai năm 2013

Ban Thường trực đã ban hành Kế hoạch số 341/KH-MTTW-BTT về giám sát Luật Đất đai năm 2013. Để bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong tổ chức và thực hiện giám sát, ngày 19/7/2021, Ban Thường trực tổ chức hội nghị xin ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học về những nội dung trọng tâm cần giám sát trong Luật Đất đai, mời các chuyên gia viết các chuyên đề chuyên sâu; đề nghị một số tổ chức thành viên, cơ quan tư pháp và Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo làm rõ hơn một số bất cập trong các quy định của Luật Đất đai; đề xuất các quy định cần sửa đổi, bổ sung của Luật Đất đai nhằm đáp ứng đòi hỏi thực tiễn đang đặt ra.

Bên cạnh việc nghiên cứu, xem xét các quy định của Luật Đất đai, Ban Thường trực cũng đã nghiên cứu, xem xét và các tài liệu liên quan như: Báo cáo về việc tổng kết Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc đánh giá 07 năm thi hành Luật Đất đai năm 2013 và định hướng sửa đổi Luật Đất đai, các báo cáo tổng kết thi hành Nghị quyết số 19-NQ/TW của MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố; tổ chức hội nghị lấy ý kiến chuyên gia và đại diện các bộ, ngành liên quan. Ban Thường trực đã có những đánh giá những ưu điểm và hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi Luật đất đai, cụ thể:

- Luật Đất đai năm 2013 đã thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và các quy định Hiến pháp năm 2013 về đất đai, tạo hành lang pháp lý trong công tác tổ chức, quản lý, sử dụng đất đai. Công tác tổ chức, quản lý về đất đai những năm qua đã đem lại nhiều kết quả thiết thực, góp phần thực hiện dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của cá nhân, tổ chức được bảo đảm hơn; thị trường bất động sản, quyền sử dụng đất từng bước được hoàn thiện, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được giao quyền sử dụng đất được bảo đảm và phát huy, nguồn lực từ đất đai được khai thác và sử dụng hiệu quả hơn...

- Bên cạnh đó, qua gần 10 năm thực hiện các quy định của Luật Đất đai cho thấy, Luật Đất đai đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 chưa tương thích với Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật có liên quan, những vướng mắc, bất cập trong quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; vướng mắc, bất cập trong quy định về giao đất, cho thuê đất, quy định về tài chính với đất đai; chưa phân cấp xác định rõ trách nhiệm, kiểm soát quyền lực trong giao đất, cho thuê đất, xác định giá đất, để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện trong đất đai còn nhiều; vướng mắc, bất cập trong qui định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải quyết tranh chấp về đất đai; bất cập, vướng mắc của pháp luật đất đai hiện hành về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; vướng mắc, bất cập trong quy định về quyền sử dụng đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số; vướng mắc, bất cập về tham vấn người dân trong lĩnh vực đất đai...

Sau khi thực hiện giám sát, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam có báo cáo giám sát[8] với 35 kiến nghị gửi các cơ quan có thẩm quyền với một số nội dung, cụ thể:

(1) Đối với Quốc hội

Kiến nghị Quốc hội chỉ đạo sửa đổi, bổ sung luật Đất đai và đồng bộ, thể chế những nội dung mới qua hoạt động giám sát mà MTTQ Việt Nam đề xuất, kiến nghị, hoàn thiện khung pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu phát huy tốt nhất nguồn lực của đất theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các đạo luật. Đối tượng chịu sự tác động của Luật Đất đai rất rộng, do vậy việc tổ chức sửa đổi Luật Đất đai phải được thực hiện công phu, nghiêm túc, toàn diện, triệt để, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan theo đúng các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội tích cực, chủ động, đồng hành cùng Chính phủ trong xây dựng luật, chuẩn bị việc thẩm tra dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) bảo đảm chất lượng, hiệu lực và hiệu quả trong thực tế cuộc sống.

(2) Đối với Chính phủ

Đề nghị Chính phủ chỉ đạo tích cực chuẩn bị nội dung sửa đổi, bổ sung, làm rõ những vấn đề có ý kiến khác nhau; tổ chức các hình thức tọa đàm, trao đổi, lấy ý kiến rộng rãi để đạt sự đồng thuận cao. Chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các Bộ, ngành, các cơ quan ở Trung ương và địa phương, các tổ chức, cá nhân liên quan trong công tác nghiên cứu, tổ chức sửa đổi Luật Đất đai; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các chuyên gia, nhà khoa học nhằm huy động hiệu quả trí tuệ tập thể, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy sự pháp triển của đất nước.

(3) Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường

Tích cực tham mưu thực hiện các bước, quy trình sửa đổi Luật Đất đai theo trình tự, thủ tục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật… Thực hiện nghiêm túc, công phu, khách quan, khoa học việc đánh giá tác động chính sách, làm rõ những nội dung còn có ý kiến khác nhau để Luật đi vào cuộc sống, đáp ứng yêu cầu phát huy nguồn lực đất đai trong giai đoạn mới. Đồng thời, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai theo quy định, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, ngăn ngừa sai phạm; phối hợp đề xuất, hướng dẫn tháo gỡ những vướng mắc với đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh hiện do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp không thuộc diện sắp xếp lại theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp của Chính phủ và "Đề án tăng cường quản lý đối với đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh hiện do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp không thuộc diện sắp xếp lại theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP, ban quản lý rừng và các tổ chức sự nghiệp khác, hộ gia đình, cá nhân sử dụng” ban hành kèm Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 07/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

4. Giám sát việc thực hiện chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19

Sau khi Nghị quyết số 68/NQ-CP (Nghị quyết số 68) ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam ban hành hướng dẫn số 70/HD-MTTW-BTT ngày 05/8/2021 hướng dẫn việc phối hợp giám sát thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, thường xuyên theo dõi và cập nhật thông tin việc triển khai chính sách của các cơ quan được Chính phủ phân công.

Qua theo dõi, nắm bắt tình hình các địa phương, báo cáo của các cơ quan, bộ, ngành, Ban Thường trực đã báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP, cụ thể:

- Đến nay, 63/63 chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, thành phố đã chủ động tiếp cận và hướng dẫn người sử dụng lao động hoàn thiện việc lập hồ sơ vay vốn. Ngoài ra, các tỉnh, thành phố đang trong khu vực thực hiện Chỉ thị số 16 đã thông qua Cổng Dịch vụ công quốc gia, bưu điện để tiếp nhận, hướng dẫn người sử dụng lao động hoàn thiện hồ sơ. Đến ngày 24/9/2021, hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội đã tiếp nhận được 451 hồ sơ đề nghị vay vốn của người sử dụng lao động với tổng số tiền hơn 254 tỷ đồng để trả lương cho 71,434 lượt người lao động. Trong đó: Trả lương ngừng việc là 327 lượt người sử dụng lao động (NSDLĐ) với số tiền gần 81 tỷ đồng cho 22.206 lượt người lao động (NLĐ); trả lương phục hồi sản xuất sau khi tạm dừng hoạt động là 96 lượt NSDLĐ với số tiền 167 tỷ đồng cho 47.497 lượt NLĐ; trả lương phục hồi sản xuất trong lĩnh vực hoạt động vận tải, hàng không du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng là 28 lượt NSDLĐ với số tiền hơn 6 tỷ đồng cho 1.731 lượt NLĐ… (Báo cáo số 8395/BC-NHCS ngày 24/9/2021 của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam về kết quả thực hiện Nghị quyết số 68 của Chính phủ và Quyết định số 23 của Thủ tướng Chính phủ).

- Có trên 22 triệu lượt người được nhận hỗ trợ với tổng số tiền gần 4.700 tỷ đồng. Ngoài thực hiện chính sách theo Nghị quyết số 68 của Chính phủ, đến nay có 25 tỉnh, thành phố đã có những chính sách hỗ trợ khác (Theo tổng hợp báo cáo của Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam 50 tỉnh, thành phố về kết quả bước đầu triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19).

Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tập trung phối hợp và tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 68 và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ nhằm góp phần thúc đẩy và bảo đảm các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn cho đại dịch Covid-19 được triển khai kịp thời, đúng đối tượng, công bằng, chính xác; kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế và ngăn chặn các hành vi trục lợi, vi phạm trong thực hiện chính sách. Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành trong việc triển khai, hướng dẫn thực hiện để các cấp, các ngành liên quan kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện; chủ động rà soát, hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động thực hiện nộp hồ sơ hỗ trợ theo quy định.

 Qua thực hiện giám sát, Ban Thường trực đã tổng hợp những phản ánh, kiến nghị của các địa phương về chính sách hỗ trợ để kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan, cụ thể:

(1) Đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát bổ sung đối tượng được hỗ trợ và điều kiện được hỗ trợ (như người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện trợ cấp thất nghiệp, nông dân có trang trại sản xuất, chăn nuôi nông sản theo hướng hàng hóa…);

Bổ sung chính sách hỗ trợ cho cán bộ Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động, tiếp nhận khi làm nhiệm vụ bị nhiễm Covid-19 (F0, F1) như chính sách hỗ trợ cho các lực lượng tuyến đầu tham gia công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19.

(2) Đề nghị các bộ, ngành rà soát đối tượng được hỗ trợ và thủ tục thực hiện để đảm bảo ý nghĩa thực chất của chính sách.

5. Giám sát việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2020

Thực hiện Chương trình phối hợp số 02/CTPH-BNV-TWMTTQVN-TWHCCBVN ngày 24/7/2018 giữa Bộ Nội vụ, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam về đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2018-2020. Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, một số bộ ngành có liên quan, Ban Thường trực tổ chức giám sát việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính (TTHC) theo hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan.

Qua giám sát cho thấy, về cơ bản, các nhiệm vụ về cải cách TTHC đã được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, có sự chỉ đạo kịp thời, sát sao của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông hoạt động ngày càng hiệu quả và phát huy tác dụng. Thủ tục hành chính được công khai, minh bạch giúp người dân, doanh nghiệp tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu các quy định, thủ tục hành chính, từ đó tăng cường vai trò giám sát của người dân, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính… Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện cải cách TTHC nói chung còn những tồn tại, hạn chế như: Một số TTHC còn chồng chéo, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, nhất là lĩnh vực xây dựng, đất đai. Vẫn còn tình trạng chậm, muộn trong giải quyết TTHC, yêu cầu thêm thành phần hồ sơ ngoài quy định; Còn tình trạng một số bộ, ngành trung ương chậm công bố, công khai thủ tục hành chính hoặc công khai nhưng không đầy đủ trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC hoặc công bố nhưng không gửi địa phương (Bộ Y tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông…).

Việc rà soát đơn giản hóa TTHC của nhiều địa phương, đơn vị còn hình thức, liên thông phần mềm một cửa với các phần mềm chuyên ngành khác mới chỉ liên thông đến 03 cấp (tỉnh, huyện, xã), chưa liên thông được với phần mềm của các Bộ, ngành trung ương; phần mềm một cửa điện tử trang bị cho các đơn vị trong quá trình sử dụng vẫn còn phát sinh nhiều lỗi cần phải khắc phục; Việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến trong giải quyết TTHC mức độ 3, 4 của người dân, tổ chức ở một số địa phương còn hạn chế. Việc thực hiện tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích đã được người dân đón nhận nhưng kết quả chưa cao; Một số nơi, nguồn kinh phí chi cho hoạt động CCHC còn hạn chế, đặc biệt là việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn nhiều khó khăn ..

Qua giám sát, Ban Thường trực đã xây dựng Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính năm 2020[9] và có một số kiến nghị:

(1) Đối với Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

- Đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tiếp tục tăng cường giám sát cải cách hành chính, giảm TTHC, xây dựng Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII.

- Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thường xuyên rút kinh nghiệm hoạt động của Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh cho phù hợp với Một cửa quốc gia và các giải pháp xây dựng Chính phủ điện tử. 

- Chỉ đạo các bộ, ngành đẩy nhanh tiến độ và chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật để việc áp dụng được lâu dài, cụ thể, sát thực và không mâu thuẫn, tránh tình trạng khi Nghị định của Chính phủ có hiệu lực thi hành, địa phương vẫn phải chờ thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành mới thực hiện được.

- Chỉ đạo các bộ, ngành thường xuyên cập nhật, công bố sớm các TTHC thuộc ngành, lĩnh vực khi Quốc hội, Chính phủ ban hành các luật, nghị định mới hoặc sửa đổi, bổ sung có các TTHC thuộc thẩm quyền của các cấp chính quyền hoặc TTHC liên quan đến các bộ, ngành cần quy định rõ thời gian ở từng cấp chính quyền và ở từng cơ quan giúp cho các địa phương kịp thời rà soát, đơn giản hóa và quyết định công bố thực hiện nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong xây dựng, hướng dẫn công bố các lĩnh vực, nhóm TTHC liên thông có liên quan; phân định rõ thời gian giải quyết ở từng bộ, ngành, từng cấp chính quyền, từng cơ quan cụ thể để thuận lợi thực hiện ở địa phương.

- Xem xét chỉ đạo thống nhất việc quản lý, sử dụng thêm con dấu thứ 2 của cơ quan, tổ chức để đảm bảo việc giải quyết TTHC “4 tại chỗ” ở Trung tâm Phục vụ hành chính cấp tỉnh và Bộ phận Một cửa cấp huyện.

- Sớm ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển dịch vụ công trực tuyến như: thanh toán không dùng tiền mặt, online…

(2) Đối với bộ, ngành Trung ương

- Đề nghị các bộ, ngành trung ương tăng cường chia sẻ các cơ sở dữ liệu do các bộ, ngành trung ương quản lý phục vụ cho việc cung cấp, giải quyết dịch vụ công trực tuyến; đẩy mạnh triển khai để đưa vào khai thác, sử dụng các cơ sở dữ liệu quốc gia theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan hành chính nhà nước.

- Đề nghị các bộ, ngành trung ương rà soát lại các TTHC thường xuyên phát sinh nhiều hồ sơ để cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4; các thủ tục ít phát sinh hồ sơ không cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4; xây dựng các TTHC cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4 áp dụng cho các địa phương sát với thực tiễn để đạt hiệu quả cao.

- Đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông rà soát, hướng dẫn các bộ, ngành Trung ương và địa phương trong việc thống nhất xây dựng các phần mềm giải quyết TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan trung ương phải có giải pháp đảm bảo tương thích, kết nối, chia sẻ được dữ liệu với các phần mềm giải quyết TTHC do các địa phương xây dựng để kiểm soát quy trình giải quyết TTHC theo một thể thống nhất, tương thích, đồng bộ.

- Đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn tháo gỡ khó khăn trong việc triển khai dịch vụ công trực tuyến đối với thủ tục hành chính liên quan đến lý lịch tư pháp, luật sư, hộ tịch.

- Đề nghị Văn phòng Chính phủ tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nâng cao nghiệp vụ công tác kiểm soát TTHC, cũng như công tác rà soát, đánh giá TTHC, tính toán chi phí tuân thủ TTHC cho địa phương; tập huấn về Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử.

(3) Đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

- Tiếp tục quan tâm, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, trong đó chú trọng hơn nữa tới nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ, văn hóa công sở, ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Xây dựng nền hành chính hiện đại hóa theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả, đảm bảo tính liên thông, đồng bộ, thống nhất nhằm thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước.

- Quan tâm đến việc nâng cao các chỉ số liên quan đến cải cách hành chính, trong đó có Chỉ số Cải cách hành chính (PAR INDEX), Chỉ số Hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS). Định kỳ hằng năm tổ chức sơ kết, tổng kết công tác cải cách hành chính; khen thưởng cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính của địa phương.

- Chỉ đạo Sở Nội vụ, Văn phòng UBND cấp tỉnh phát huy vai trò chủ trì, có chương trình phối hợp cụ thể với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Cựu chiến binh cùng cấp trong thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính; trong thực hiện đo lường chỉ số hài lòng của người dân; trong tổ chức; tuyên truyền, vận động người dân tham gia giám sát, phản hồi ý kiến về chất lượng dịch vụ công. Chỉ đạo các đơn vị ở địa phương tạo điều kiện thuận lợi tiến hành điều tra xã hội học, lấy ý kiến hài lòng của người dân bảo đảm trung thực, khách quan.

6. Kết quả giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội

6.1 Hội Cựu Chiến binh Việt Nam

Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã chủ trì tổ chức giám sát việc thực hiện Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh Cựu chiến binh; Nghị định số 157/2016/NĐ-CP ngày 24/11/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh Cựu chiến binh đối với Ủy ban nhân dân (UBND) 02 tỉnh: Thái Bình và Nam Định.

Các địa phương đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị định 150/2006/NĐ-CP và Nghị định số 157/2016/NĐ-CP của Chính phủ; các sở, ban, ngành tích cực phối hợp nghiên cứu, tham mưu với cấp ủy, chính quyền cùng cấp tạo mọi điều kiện cho các hoạt động của Hội Cựu chiến binh; thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cựu chiến binh như: Chế độ bảo hiểm y tế, đổi mã quyền lợi bảo hiểm y tế, chế độ mai táng phí khi từ trần; ưu tiên học nghề, tạo việc làm, giao đất, giao rừng, giao mặt nước… để sản xuất, tham gia các dự án phát triển kinh tế của địa phương; khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ hợp tác; xuất khẩu lao động… Tuy nhiên, công tác quán triệt, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách để thực hiện các nội dung của 2 nghị định có lúc chưa đầy đủ; một số tổ chức cơ sở Hội chưa chủ động tham mưu với cấp ủy Đảng, phối hợp với chính quyền, MTTQ Việt Nam và các ban, ngành, đoàn thể trong việc triển khai thực hiện 150/2006/NĐ-CP và Nghị định số 157/2016/NĐ-CP của Chính phủ; việc theo dõi, quản lý về chế độ chính sách cho đối tượng cựu chiến binh được hưởng các chế độ chính sách khác nhau ở các cấp đôi khi chưa tốt, nên việc đề nghị cấp thẻ Bảo hiểm y tế và mai táng phí dễ bị trùng lặp…

6.2. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Trung ương Đoàn đã triển khai giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Ban hành Kế hoạch về tổ chức giám sát về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Ban Thường vụ các tỉnh, thành ủy Hà Nội, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Bình Thuận, An Giang. Do tình hình dịch bệnh COVID-19 phức tạp nên Trung ương Đoàn đã chuyển hình thức giám sát bằng nghiên cứu văn bản. Sau khi nghiên cứu các báo cáo của các địa phương, Trung ương Đoàn đã có đánh giá, nhận xét về việc triển khai xây dựng các chương trình, kế hoạch, cụ thể hóa Nghị quyết số 25-NQ/TW và có kiến nghị cụ thể gửi đến các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm đến bồi dưỡng và phát triển toàn diện thanh niên Thủ đô; thực hiện rà soát, chỉ đạo nghiên cứu, ban hành theo thẩm quyền các chính sách, pháp luật về thanh niên; tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh Thành phố huy động, tổ chức cho thanh niên tham gia thực hiện các nhiệm vụ, chương trình phát triển kinh tế - xã hội...

6.3. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Triển khai giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 theo sự phân công của Ủy ban MTTQ Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Việt Nam đã ban hành Hướng dẫn số 57/HD-ĐCT ngày 12/8/2021 hướng dẫn Hội LHPN các cấp giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó tập trung giám sát việc thực hiện 02 chính sách: Giám sát việc triển khai chính sách hỗ trợ đối với trẻ em và người đang điều trị COVID-19, cách ly y tế; Giám sát việc triển khai chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh và tham gia giám sát các chính sách khác cùng MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương. Trung ương Hội đã tổ chức hội nghị trực tuyến để cụ thể hóa hướng dẫn 57/HD-ĐCT cho gần 200 đại biểu là lãnh đạo các ban, đơn vị Trung ương Hội, các tỉnh, thành Hội. Bên cạnh đó Hội LHPN Việt Nam cũng đã phối hợp với MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát nội dung các chính sách hỗ trợ khác theo quy định bằng các hình thức linh hoạt phù hợp với diễn biến tình hình của đại dịch COVID-19.

6.4. Trung ương Hội Nông dân Việt Nam

Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức khảo sát, đánh giá việc triển khai thực hiện một số nội dung trọng tâm công tác Hội tình hình thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/6/2008 Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại tại các tỉnh Hà Tĩnh, Hà Giang, Tuyên Quang, Hải Phòng. Đồng thời, Trung ương Hội tăng cường giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thông qua việc nghiên cứu các báo cáo và thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.

6.5. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

Do diễn biến phức tạp của dịch COVID -19, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tập trung chỉ đạo, nắm tình hình của địa phương, triển khai giám sát thường xuyên đối với việc thực hiện thảo ước lao động tập thể, hợp đồng lao động, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, việc giải quyết chế độ chính sách đối với đoàn viên, người lao động, trong đó có việc giải quyết chế độ chính sách cho đoàn viên người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Đồng thời, chủ động triển khai các hoạt động giám sát có liên quan đến đoàn viên, người lao động, phối hợp những nội dung giám sát do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chủ trì thực hiện.

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục hoàn thành các nội dung, nhiệm vụ đã đề ra tại Kế hoạch số 240/KH-MTTW-UB ngày 31/12/2020 về giám sát và phản biện xã hội của năm 2021, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, cách làm thiết thực, hiệu quả (kết quả giám sát sẽ thông báo tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV).

2. Tổ chức tổng kết việc thực hiện các chương trình phối hợp giám sát của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thời gian qua; đánh giá kết quả công tác giám sát năm 2021 và xây dựng kế hoạch giám sát năm 2022, tập trung giám sát việc giải quyết các vụ việc cụ thể khiếu nại liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng tái định cư; giám sát cán bộ, đảng viên đối với người đứng đầu, cán bộ chủ chốt; giám sát việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia...

3. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động giám sát và phản biện xã hội; kết quả, kinh nghiệm, cách làm thiết thực trong tổ chức thực hiện nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và Nhân dân về công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4. Phát huy các hình thức giám sát, chú trọng giám sát đột xuất, giám sát văn bản, giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; theo dõi, đôn đốc, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền thực hiện những kiến nghị sau giám sát của Mặt trận.

5. Tiếp tục phát huy vai trò của các Hội đồng tư vấn, nhà khoa học, chuyên gia, người có kinh nghiệm, uy tín, tiêu biểu tham gia vào quá trình giám sát. Kết hợp khảo sát, tọa đàm, tổ chức các diễn đàn để làm rõ những nội dung giám sát…nhằm nâng cao tác dụng, lan tỏa hiệu quả hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

6. Tăng cường sự phối hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam với các tổ chức thành viên. Đặc biệt, chú trọng việc phối hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam với hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp nhằm tạo ra cơ chế giám sát đồng bộ, hiệu quả giữa giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước với giám sát xã hội của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.

Trên đây là kết quả giám sát của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từ sau kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIV đến kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV. Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam trân trọng đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét, chỉ đạo thực hiện những kiến nghị theo quy định./.

Nơi nhận:
- Tổng Bí thư, Chủ tịch nước;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Chủ tịch Quốc hội;
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
 - Các Ban Đảng, Văn phòng TW Đảng;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội;
- Kiểm toán Nhà nước;
- TANDTC, VKSNDTC;
- VPCTN, VPQH, VPCP;
- Các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- Các đại biểu Quốc hội;
- Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN;
- Các TCTV của MTTQVN ở Trung ương;
- Ủy ban MTTQVN các tỉnh, thành phố;
- Lưu VT, Ban DCPL.

TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH - TỔNG THƯ KÝ

(Đã ký)

Lê Tiến Châu



[1] Nội dung kiểm tra, giám sát được tiến hành toàn diện trên tất cả các mặt. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh đã chủ trì tổ chức kiểm tra, giám sát với tổng số 480 cuộc, tham gia phối hợp 845 cuộc; Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện đã chủ trì tổ chức 2.764 cuộc, tham gia phối hợp 4.269 cuộc; Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã đã chủ trì tổ chức 18.490 cuộc, tham gia phối hợp 23.696 cuộc.

[2] Báo cáo số 361/BC-MTTW-BTT ngày 29/6/2021 của Ban Thường trực.

[3] Hội nghị trực tuyến có 4300 người dự gồm Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp, cán bộ chuyên môn cơ quan, MTTQ VN cấp tỉnh.

[4] Bình quân số ngày Chủ tịch UBND các cấp tiếp dân theo quy định: Cấp tỉnh đạt 47%;  cấp huyện: Tiếp dân đạt 49% theo quy định.

[5] Số vụ giải quyết quá hạn ở cấp tinh: Khiếu nại: 813 vụ = 18 %; tố cáo: 218 vụ = 22%  vụ; Số vụ giải quyết quá hạn ở cấp huyện: Khiếu nại:  913 vụ = 11%; tố cáo: 199 vụ = 8 %.  

[6] Số vụ khiếu nại đúng: 1223 vụ = 16 %; Số vụ khiếu nại đúng một phần: 914 vụ = 12 %; Số vụ tố cáo đúng: 725 vụ = 35 %;  Số vụ tố cáo có đúng có sai: 538 = 25 %. 

[7] Báo cáo số 404/MTTW-BTT ngày 18/10/2021 của Ban Thường trực Ủy ban TW MTTQ Việt Nam

[8] Báo cáo số 405/MTTW-BTT ngày 18/10/2021 của Ban Thường trực Ủy ban TW MTTQ Việt Nam.

[9] Báo cáo số 266/BC-MTTW-BTT ngày 29/12/2020 của Ban Thường trực.