(Mặt trận) - Ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường luôn trở thành động lực mạnh mẽ trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng kể từ khi ra đời từ năm 1930 đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ luôn được Đảng ta đặt ra thường xuyên. Trải qua gần 40 năm đổi mới, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ngày càng được nhận thức, bổ sung sâu sắc, đầy đủ hơn, phản ánh năng lực tư duy và tầm trí tuệ lãnh đạo đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
|
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao _Nguồn: nhandan.vn |
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ qua các kỳ đại hội Đảng trong gần 40 năm đổi mới
Sự phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới được thể hiện qua mỗi kỳ đại hội Đảng. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh lạnh đang đi vào hồi kết. Tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, sụp đổ, tan rã. Trong khi đó, nước ta không còn nhận viện trợ, đầu tư từ các nước xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế bị thu hẹp, cô lập, cấm vận, nhất là đối với thị trường các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Đảng ta kịp thời phân tích, đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Theo đó, Đại hội VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tranh thủ điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào phân công và hợp tác quốc tế trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác. Không chỉ vậy, Đảng ta chủ trương “tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”(1). Chủ trương này của Đảng thể hiện cách tiếp cận mới, đó là độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, từ đó mở đường cho tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm đầu đổi mới.
Đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sơ bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(2). Điểm mới trong nhận thức lý luận về độc lập, tự chủ là Đảng ta đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời coi đây là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Về đối ngoại, Đại hội VII của Đảng đề ra nhiệm vụ “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”(3). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Cương lĩnh 1991) khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân kiên định con đường đổi mới, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo tinh thần Đại hội VII của Đảng và Cương lĩnh 1991, từ chỗ bị cô lập, cấm vận, đất nước ta đã chủ động phá thế bao vây, bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, thực hiện chủ trương “muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”. Đây là minh chứng sinh động và ý nghĩa về tầm quan trọng của việc nhận thức và phát triển lý luận về độc lập, tự chủ của Đảng trong lựa chọn con đường phát triển đất nước trước những biến động của thời cuộc.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng mở rộng cách tiếp cận về nội hàm độc lập, tự chủ từ nâng cao ý thức độc lập, tự chủ đến yêu cầu tạo lập được vị thế độc lập, tự chủ bao gồm “độc lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh”(4), sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập... và “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế”(5). Cái mới trong nhận thức và phát triển lý luận về độc lập, tự chủ của Đại hội VIII của Đảng là đưa thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” vào văn kiện, đồng thời làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc”(6). Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII (tháng 12-1997) nhận thức rõ hơn: Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa đoàn kết, hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nâng cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội IX (năm 2001) của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc, khó lường, trong đó chính trị cường quyền nổi lên và kinh tế thế giới dần lâm vào suy thoái, khủng hoảng; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế khách quan, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. Trước tình hình đó, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ tiếp tục được Đảng ta nhận thức, bổ sung đầy đủ hơn, gắn quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa...”(7). Chủ trương này phản ánh bước chuyển lớn về tư duy lý luận độc lập, tự chủ trong đường lối đối ngoại của Đảng. Quan điểm chỉ đạo được Đại hội IX đưa ra là: “... phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế..., kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”(8). Mở rộng quan hệ với các nước, trung tâm kinh tế quốc tế, nhưng không để nền kinh tế nước nhà bị lệ thuộc hay chịu sự chi phối từ bên ngoài.
Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 12-7-2003, của Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, xác định việc giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại và củng cố môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực, chủ động tiến hành hoạt động đối ngoại trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Tại Đại hội X (năm 2006) của Đảng, nhận thức về lý luận về độc lập, tự chủ được đúc rút thành bài học kinh nghiệm: “... trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(9). Đại hội X bổ sung cụm từ “tích cực” vào chủ trương hội nhập: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác...”(10). Đồng thời bổ sung: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước... Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương”(11).
Đến Đại hội XI (năm 2011), nhận thức lý luận của Đảng về độc lập, tự chủ được khẳng định rõ hơn khi thống nhất dùng khái niệm “độc lập, tự chủ” thay cho “độc lập tự chủ” để thể hiện đúng hai mặt “độc lập” và “tự chủ” của “chủ quyền quốc gia”. Nhằm cụ thể hóa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong đường lối phát triển, ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, “Về hội nhập quốc tế” nhằm hướng tới củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Một điểm mới trong nhận thức và phát triển lý luận của Đảng về độc lập, tự chủ là đã đưa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong tám mối quan hệ lớn cần tập trung giải quyết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)(12).
Trên cơ sở nhận thức đúng về xu thế thời đại và cục diện thế giới, Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong mười mối quan hệ lớn(13), phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Đồng thời, trên cơ sở làm sáng tỏ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, Đảng ta chỉ đạo việc thực hiện các chính sách: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”(14). Đảng khẳng định quan điểm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi...”; “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”(15).
Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó đoán định. Đại dịch COVID-19 gây đảo lộn nghiêm trọng về kinh tế, xã hội toàn cầu. Tuy nhiên, khi dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát tại hầu hết các nước trên thế giới, thì những yếu tố bất định, rủi ro từ an ninh phi truyền thống, như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xung đột chính trị, cạnh tranh chiến lược; rủi ro lạm phát, tài chính - tiền tệ; an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh chuỗi cung ứng... đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”(16). Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”(17).
|
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhân dịp tham dự Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ _Ảnh: TTXVN |
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong bối cảnh mới của tình hình khu vực và thế giới
Trong những năm qua, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Hòa bình, hợp tác và phát triển tuy vẫn là xu thế lớn, nhưng đang bị thách thức nghiêm trọng. Cạnh tranh chiến lược nước lớn, nhất là cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc - hai cường quốc hàng đầu thế giới - đã và đang tác động đa chiều đến định hình trật tự thế giới mới. Vấn đề tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biển, đảo diễn biến phức tạp ở nhiều khu vực. Chạy đua vũ trang, cuộc chiến thương mại ngày càng phức tạp làm cho quá trình toàn cầu hóa và kinh tế thế giới đối mặt với nhiều trở ngại. Chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân túy gia tăng. Các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, đồng thời đưa tới cả thời cơ lẫn thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Bối cảnh thế giới, khu vực phức tạp, khó lường nêu trên đặt ra không ít vấn đề liên quan đến độc lập, tự chủ của các nước, nhất là những nước nhỏ, đang phát triển.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng được hình thành, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cách mạng. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1945 - 1975), Đảng ta đã nhận thức và giải quyết vấn đề độc lập, tự chủ trong hoạt động đối ngoại đi đôi với tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Đó là, thực hiện đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi lịch sử vào Mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ bảo vệ nền độc lập và tìm tòi con đường đổi mới (1975 - 1985), đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng đã dần tiếp cận với những biến chuyển của thời cuộc cũng như trong nước; tư duy của Đảng cũng đổi mới từng phần quan trọng về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Giữ vững độc lập, tự chủ, từng bước thoát khỏi bao vây, cấm vận là kết quả của sự tìm tòi, sáng tạo, phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, tạo cơ sở, tiền đề cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước giai đoạn tiếp theo - thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (từ năm 1986 đến nay). Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong thời kỳ đổi mới và trong bối cảnh mới của tình hình khu vực và thế giới có thể bước đầu được định hình qua cách nhìn của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Độc lập, tự chủ đồng nghĩa với việc mọi quyết định phải trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc và các nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế... Độc lập, tự chủ là cơ sở để huy động ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo sức mạnh tổng hợp, qua đó giúp củng cố độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ được hiểu một cách biện chứng, linh hoạt, trong đó hội nhập quốc tế là chấp nhận có nghĩa vụ, ràng buộc nhất định, nhưng luôn bảo đảm sự độc lập, tự chủ của quốc gia trên tất cả các mặt kinh tế và quốc phòng, an ninh và đối ngoại, văn hóa và xã hội(18).
Để nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, cần xử lý đúng đắn, hài hòa các mối quan hệ:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với mở cửa, hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, mà phải mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.
Thứ hai, mối quan hệ hữu cơ giữa độc lập, tự chủ với định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc.
Thứ ba, mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế. Tâm điểm của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ chính là sự gắn kết giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đó là, tiếp cận toàn diện về độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, lấy nội lực là quyết định, huy động tối đa ngoại lực. Hội nhập quốc tế để phục vụ độc lập, tự chủ, còn độc lập, tự chủ là nền tảng cho hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và hiệu quả.
Thứ tư, mối quan hệ giữa kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Muốn giữ được độc lập, tự chủ thì trong đối ngoại nói riêng cần nắm vững quan điểm kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó dựa vào sức mình, dựa vào nội lực đất nước là chính, khơi dậy và phát huy cao độ nội lực, trong khi tranh thủ tối đa ngoại lực.
Tóm lại, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong đổi mới và hội nhập quốc tế hình thành cùng với quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế tại Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, việc Việt Nam hoạch định, triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả, hài hòa quan hệ với các nước lớn và theo hướng ngày càng tự chủ chiến lược, vừa giữ vững tổng thể cục diện đối ngoại, vừa khẳng định một Việt Nam bản lĩnh, tin cậy và có trách nhiệm, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Vững vàng, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ là sự bảo đảm độc lập, tự chủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước những biến động của thời cuộc, góp phần quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
PGS, TS Thái Văn Long
Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
--------------------
(1) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 84
(2), (3), (4), (5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Sđd, tr. 224, 331, 22, 84
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 74
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 43
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 25 - 26
(9) Văn kiện Đại hội đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Sđd, tr. 622
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, 2006, tr. 112
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 114
(12) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72 - 73
(13) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 17 - 18
(14), (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 153, 77, 153
(16), (17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 161, 164
(18) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 43 - 44
Theo Tạp chí Cộng sản