Chủ trương đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và giải pháp thực hiện

(Mặt trận) -Công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta luôn quan tâm, dành nhiều chủ trương ưu tiên, đầu tư phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh… đối với vùng dân tộc và miền núi .

Đời sống của đồng bào Chăm ở Tánh Linh ngày càng nâng cao

Sức sống mới ở các thôn, làng đồng bào DTTS huyện Sa Thầy

Hiệu quả Chương trình MTQG 1719 ở tỉnh Thái Nguyên

 Ảnh minh họa

CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG THỜI GIAN QUA

Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc từ thời kỳ đổi mới đất nước đến nay được thể hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Đảng, được ban hành cụ thể trong từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn, với nội dung cơ bản thống nhất, đó là: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất”(1).

Với những nội dung trên, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc đã mang tính toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng dân tộc và niềm núi (DT&MN) và luôn được sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn nhằm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DT&MN cùng với sự phát triển chung của đất nước. Theo đó, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư... của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Do có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị nên trong những năm qua, công tác dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tính riêng trong giai đoạn 2016 - 2020, vùng đồng bào DT&MN có những chuyển biến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.

Trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 7%/năm; tỷ lệ hộ nghèo vùng DT&MN giảm 4%/năm; các huyện nghèo giảm 4 - 5%, có nơi giảm trên 5%; tỷ lệ hộ cận nghèo toàn vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thôn ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nông thôn mới, có 27 huyện (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới

Kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông từ tỉnh đến trung tâm các huyện đã được rải nhựa hoặc bê tông hoá 100%; các xã có đường ô-tô đến trung tâm đạt 98,4%; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 96,7%; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thôn có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ thôn có đường giao thông được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.

Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngày càng phát triển, tỷ lệ người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học phổ thông tăng 14,7%. Đến hết năm 2020 cả nước đã xây dựng được 316 trường phổ thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú, 4 trường và 3 khoa dự bị đại học dân tộc. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động dân tộc thiểu số đạt được một số kết quả quan trọng.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, đến hết năm 2020 vùng DT&MN có 99,5% số xã có trạm y tế; trong đó, có 83,5% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (tăng gấp 2 lần so với năm 2015); số trạm y tế có bác sỹ chiếm 77,2%. Bên cạnh đó, có 93% số người dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Ngoài ra, tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7%; hôn nhân cận huyết giảm 0,9%.

Trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận, trong đó, tiếp tục công nhận 4 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di tích lịch sử văn hóa quốc gia; phong tặng, truy tặng 559 nghệ nhân dân gian là người dân tộc thiểu số; hàng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân tộc thiểu số … có 95% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; phát sóng được 22 thứ tiếng dân tộc, phù hợp với từng vùng, miền. Ngoài ra, đến hết năm 2020 đã xây dựng được hơn 16.000 điểm bưu điện văn hóa xã; có hàng triệu tờ báo được cấp không thu tiền.

Công tác phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn được quan tâm. Tính đến hết năm 2020, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14,5%; trong đó, giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp chiếm 17,2%. Cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025 đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 0,72%; ủy viên ban thường vụ đạt tỷ lệ 11,86%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 0,51%; bí thư cấp ủy người DTTS có 9,23%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 1,54%. Trong đó, tỷ lệ đảng viên là người dân tộc thiểu số tăng từ 10,94% năm 2012 lên 11,98% năm 2019.

Bên cạnh đó, công tác quốc phòng, an ninh luôn được củng cố và tăng cường, trong đó, đã chủ động phát hiện, giải quyết kịp thời các vụ việc, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự trên địa bàn vùng DT&MN(2).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế, yếu kém, đó là: “Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng chung của cả nước, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao; khoảng cách so với vùng phát triển có xu hướng gia tăng; khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội còn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu quả; cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ theo quy định; hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ở một số nơi chậm được khắc phục; vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự”(3).

Những hạn chế, yếu kém trên được xác định có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả khách quan và chủ quan, đó là: Điểm xuất phát của vùng đồng bào DT&MN còn thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thông khó khăn, khí hậu khắc nghiệt; thiên tai, bão lũ xảy ra thường xuyên; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền, nhận thức chưa đầy đủ về công tác dân tộc; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, đồng bộ; một số chính sách còn chồng chéo, nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn có tư tưởng bằng lòng với hiện tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Đểđẩy mạnh phát triển bền vững toàn diện vùng DT&MN cùng với sự nghiệp phát triển chung của đất nước, chủ trương, đường lối về công tác dân tộc trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nêu rõ: “Đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(4).

Bên cạnh đó, văn kiện cũng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới. Triển khai các chương trình dự án phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn”(5).

Trong xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù nhằm đẩy mạnh phát triển các vùng, văn kiện đã nêu ra những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, như: Với vùng trung du và miền núi phía Bắc cần “Phát huy các lợi thế về tài nguyên rừng, khoáng sản, các cửa khẩu, văn hoá dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ…”(6). Đối với vùng Tây Nguyên, bên cạnh phát triển các thế mạnh của vùng cần đẩy mạnh “Phát triển nguồn nhân lực, ổn định dân cư, ưu tiên bảo tồn và khôi phục các giá trị văn hoá truyền thống, bản sắc của các dân tộc vùng Tây Nguyên”(7).

Đối với các vùng khác như: Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung hay vùng đồng bằng sông Cửu Long, dù văn kiện không nêu lên những vấn đề có liên quan cụ thể đến đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa phát huy các ưu thế của vùng để phát triển kinh tế - xã hội góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng nói chung, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng, bởi đây là những vùng có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống,

So với các kỳ đại hội trước đây, chủ trương, đường lối về công tác dân tộc được đề ra chỉ mang tính khát quát chung toàn bộ về vùng dân tộc và miền núi thì trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng đã chủ trương chú trọng đến tính đặc thù của từng vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đây được xem là điểm mới có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng nhằm đảm bảo phù hợp với bản sắc văn hoá, phong tục tập quán của từng vùng cũng như từng dân tộc. Vấn đề này không chỉ giúp cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà còn khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thời gian qua, bởi từng vùng hay mỗi dân tộc đều có những đặc điểm khác nhau, nhất là các đặc điểm về bản sắc văn hoá truyền thống. Đồng thời, còn “Giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung”(8).

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém về công tác dân tộc trong những năm qua nhằm phát triển toàn diện vùng DT&MN theo chủ trương, đường lối của Đảng trong văn kiện Đại hội XIII, trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”. Đồng thời thực hiện tốt các nghị quyết, các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các chính sách còn hiệu lực đối với vùng đồng bào DT&MN. Trong đó, tập trung cao độ thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội khoá XIV.

Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng DT&MN theo hướng toàn diện, bền vững. Đồng thời, mở rộng vốn ưu đãi đối với các chương trình, dự án, tạo sinh kế cho đồng bào; đẩy mạnh việc đa dạng hoá và xã hội hoá các nguồn lực, trong đó, nguồn lực nhà nước có vai trò quan trọng và quyết định trong việc huy động các nguồn lực khác. Đổi mới chính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng tăng định mức và mở rộng đối tượng cho vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Trong đó, để phát huy tiềm năng lợi thế của vùng DT&MN trong phát triển kinh tế cần đẩy mạnh các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôn có năng suất, chất lượng cao để sản xuất hàng hoá theo chuỗi giá trị nhằm cho phù hợp với các vùng và phù hợp với đặc điểm văn hoá, tập quán của các dân tộc. Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư và khai thác các giá trị văn hoá truyền thống của các DTTS gắn với phát triển du lịch, dịch vụ nhằm tạo sinh kế và công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho đồng bào các dân tộc. Đồng thời, khơi dậy tinh thần tự lực, ý chí, khát vọng vượt khó vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế để làm giàu chính đáng.

Ba là, ưu tiên nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng kiên cố nhằm đảm bảo đến năm 2025 có “100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm được rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hoá; 100% số trường lớp và trạm y tế được xây dựng kiên cố. Trong đó, đến năm 2030 có trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân”(9) để thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai như lũ ống, lũ quyét, khô hạn, nước biển dâng… Cùng với đó, cần tăng cường đầu tư đồng bộ hạ tầng viễn thông, năng lượng nhằm đảm bảo có 99% số hộ gia đình vùng đồng bào DT&MN được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp. Đồng thời, đẩy mạnh dịch vụ phát thanh, truyền hình nhằm đảm bảo đến năm 2030, đạt 100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công nghệ thông tin để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của đồng bào.

Bốn là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực về văn hoá, xã hội ở vùng đồng bào DT&MN. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo; tiến hành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đầu tư, phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú và các trường dự bị đại học. Hỗ trợ việc ăn, ở cho học sinh, sinh viên các vùng như vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời, cần đổi mới phương thức và chính sách cử tuyển đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở các khu vực đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ khởi nghiệp đối với thanh niên các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề.

Bên cạnh đó, cần nâng cao tỷ lệ và chất lượng khám chữa bệnh cho đồng bào, nhất là tuyến cơ sở, đẩy mạnh đầu tư các dịch vụ y tế; phát triển y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế nhằm tạo điều kiện cho đồng bào được khám chữa bệnh từ tuyến cơ sở đến tuyến trung ương. Xây dựng và đẩy mạnh chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em nhằm nâng cao về thể chất, tầm vóc của thanh, thiếu niên người dân tộc thiểu số.

Cùng với đó, cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở ở từng vùng, từng địa phương phù hợp với văn hoá và tập quán của các dân tộc; quan tâm sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả các giá trị văn hoá truyền thống, kể cả vật thể và phi vật thể. Kiên quyết xoá bỏ các hủ tục lạc hậu và sớm chấm dứt tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Nâng cao hơn nữa mức hưởng thụ về văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Năm là, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nhất là ở những vùng trọng điểm, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn. Chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới theo quy định. Đồng thời, có chính sách đặc thù trong việc tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cần đổi mới tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, có cơ chế, chính sách biểu dương, tôn vinh những người có uy tín, già làng, trưởng bản có nhiều đóng góp cho công tác dân tộc.

Sáu là, đẩy mạnh công tác xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở vùng DT&MN vững chắc. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù trong việc chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc. Đồng thời, không để xảy ra các “điểm nóng” phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các địa bàn chiến lược xung yếu như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và tây duyên hải miền Trung.

Bảy là, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trên thế giới nhằm trao đổi kinh nghiệm, thu hút các nguồn lực để đầu tư cho các chương trình, dự án; chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DT&MN. Có cơ chế khuyến khích cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài đóng góp nguồn lực cho phát triển toàn diện vùng DT&MN.

Có thể thấy, với quan điểm công tác dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị. Vì vậy, để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII, trong thời gian tới cần tiến hành triển khai thực hiện các giải pháp trên để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và thu hẹp dần khoảng cách về mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số so với bình quân chung của cả nước.

ThS. LÊ THANH BÌNH - Học viện Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc

Theo TG


(1) Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Tlđd, tr.77.

(2) Xem: Đỗ Văn Chiến: Báo cáo tham luận: Một số kết quả chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 - 2020; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu giai đoạn 2021 - 2025, trình bày ngày 27-1-2021 tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

(3) Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về Công tác dân tộc trong tình hình mới.

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2021, t.1, tr.170

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 252

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 153

(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.155

(8) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2016. tr.164

(9) Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội khoá XIV về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025”