(Mặt trận) - Qua gần 40 năm thực hiện đổi mới đất nước, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân tiếp tục được khẳng định là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đồng thời, việc xác lập đúng đắn vị trí của nhân dân có ý nghĩa đặc biệt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham dự ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc tại khu dân cư xóm 4, xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định) _Ảnh: TTXVN |
Nhận thức về vị trí, vai trò của nhân dân qua gần 40 năm đổi mới
Năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng đúc kết 4 bài học kinh nghiệm có ý nghĩa sâu sắc, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới; trong đó, bài học hàng đầu là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(1). Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” được Đại hội VII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh trong bài học kinh nghiệm thứ hai của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”(2). Năm 1996, tổng kết chặng đường 10 năm đầu đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đúc rút sáu bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ tư là “Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc”(3), khẳng định “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”(4). Bước vào thế kỷ XXI, sau chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng vẫn nhất quán quan điểm đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”(5).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), rút ra một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(6).
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”(7) để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vị trí trung tâm của nhân dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(8).
Lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, Đảng ta xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(9) và “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”(10). Có thể nhận thấy rằng, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục quán triệt quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm”, thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong tất cả văn kiện, trên tất cả nội dung, lĩnh vực. Trong bài phát biểu tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên triển khai Chương trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”(11).
Từ quan điểm “dân làm gốc” trong lịch sử, các kỳ đại hội của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, tập trung ở sức mạnh to lớn, nguồn lực vô tận của nhân dân; nhân dân là nền tảng, chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị, lực lượng rộng lớn trong mọi phong trào cách mạng. Đại hội XIII của Đảng đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển đất nước; sự lãnh đạo của Đảng phải hướng vào vị trí trung tâm là nhân dân, phải khơi thông những nguồn lực và sự sáng tạo của nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực của nhân dân.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng ngày càng quan tâm đến việc thể chế hóa thành những quy định về quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII của Đảng đưa ra yêu cầu, thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh thêm về trách nhiệm làm chủ của nhân dân; đồng thời, nêu rõ vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân, gắn liền với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nêu rõ phương hướng: “Lãnh đạo thể chế hóa Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nghiên cứu, ban hành cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ. Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”(12).
Điểm mới, rất quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chính là tiếp tục nhất quán quan điểm “dân là gốc”, giữ vai trò nền tảng, thống nhất vai trò của nhân dân ở “vị trí trung tâm”, lan tỏa và hội tụ, tác động nhiều chiều đến mọi lĩnh vực, lực lượng, tổ chức khác; tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc, cụ thể hóa quan điểm “dân là chủ”; đồng thời, xác định “vai trò chủ thể” của nhân dân khi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là một điều kiện quan trọng để nhân dân giữ vững và phát huy vai trò chủ thể trong sự nghiệp cách mạng. Tinh thần đổi mới của Đảng là việc khẳng định bản chất “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” trong thời kỳ mới.
Ở đây, nhân dân được đặt ở vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của mọi chiến lược phát triển đất nước, của công cuộc đổi mới. Đảng lãnh đạo nhân dân, nhân dân là đối tượng lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân không đứng ngoài các hoạt động xây dựng Đảng và các hoạt động lãnh đạo của Đảng, mà phải tham gia tích cực vào các hoạt động này. Công cuộc đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, toàn diện và đồng bộ, càng đòi hỏi sự đổi mới tự thân của nhân dân; quần chúng nhân dân cũng phải tự đổi mới, nâng cao trình độ, đổi mới nhận thức và hành động. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới, trực tiếp là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của các tầng lớp nhân dân, để nhân dân nâng cao năng lực làm chủ, năng lực chủ thể của công cuộc đổi mới.
Chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, những đánh giá qua hơn một nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cho thấy, nhìn nhận đúng đắn vị trí, vai trò của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu của cả hệ thống chính trị; đánh giá thực chất, hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây chính là cơ sở thực tiễn để Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân qua gần 40 năm đổi mới
Thứ nhất, Đảng ta từng bước đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi mặt đời sống của đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được khẳng định chính thức và làm rõ - đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh tế của Đảng, từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đã thống nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(13). Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng từng bước đề ra quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;... giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(14).
Quá trình gần 40 năm đổi mới, nhất là hơn 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đã tạo những bước tiến quan trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện. Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những nhận định, đánh giá quan trọng về mặt khoa học và được thực tiễn chứng minh. Về lý luận, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(15). Về thực tiễn, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo hướng đầy đủ, hiện đại và hội nhập; “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(16).
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được khẳng định trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994). Đến năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật ngữ này được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ đó đến nay, vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng và dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”; theo đó, các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được hoàn thiện và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân được mở rộng. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng.
Đảng luôn sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tập trung lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân; xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Tạo cơ chế thuận lợi để nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội; tổ chức hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, góp ý đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, từng bước nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội
Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tiếp cận, vận dụng chọn lọc giá trị phổ quát của các nền dân chủ đương đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thông qua các kỳ đại hội Đảng, các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ đã từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trong đó, vấn đề trọng tâm là phát huy vai trò, vị thế của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương châm công tác dân vận trong thời kỳ mới. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quyền lực thuộc về nhân dân để tạo tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn đó, chính là kết quả của ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung nhiều nội dung mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, tập trung đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật; thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt. Nghị quyết cũng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.
Điểm nổi bật là việc thể chế hóa và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng và ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; hoàn thiện và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong tất cả loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các hội quần chúng.
Phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của nhân dân, trọng tâm là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; chú trọng đến hoạt động quản lý nhà nước, những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và phát triển nhanh, bền vững đất nước; xây dựng cơ chế, chính sách để giải phóng mọi tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; phát huy vai trò chủ thể của nhân dân tham gia phát triển kinh tế, quản lý xã hội; bảo đảm công khai, minh bạch để mọi tầng lớp nhân dân có cơ hội và quyền chủ động tiếp cận thông tin.
Thứ tư, xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách lấy người dân làm trung tâm
Trên cơ sở phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, Đảng chủ trương tập trung chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân - đây là sứ mệnh của Đảng, là mục tiêu và bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan điểm về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chặng đường gần 40 năm đổi mới là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã chứng minh sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện rõ Đảng ta là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, Đảng đã trải qua 8 kỳ đại hội, từ Đại hội VI của Đảng đến Đại hội XIII của Đảng - đây là quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Trong quá trình đó, Đảng đã tạo được sự đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng và đạt được những thành tựu quan trọng, vượt bậc. Từ một đất nước cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp; đến nay, Việt Nam đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2022, Việt Nam lọt nhóm 5 nước có quy mô nền kinh tế tăng nhiều nhất thế giới, đứng thứ tư của ASEAN, đứng vị trí 40 trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993, giảm xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện giảm còn khoảng 33%,... Những kết quả, thành tựu đất nước đạt được đã tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới.
Thứ năm, thực hiện hiệu quả công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị
Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng đã chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hơn 94 năm có Đảng, qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, là chặng đường vinh quang thể hiện sinh động sự gắn kết giữa Đảng với nhân dân; thực tiễn đã chứng minh, đây không phải là khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân - “Ý Đảng, lòng dân”. Nhân dân luôn là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.Thông qua mối quan hệ này, Đảng đã phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân để thực hiện công cuộc đổi mới ngày càng hiệu quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ sáu, xây dựng, củng cố và hoàn thiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ngày càng thực chất, chặt chẽ
Là một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, sự nhận thức, phát triển nguyên tắc này thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng, quan điểm của Đảng, được khẳng định qua văn kiện các kỳ đại hội, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, ngày càng hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013 cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong mối quan hệ với nhân dân tại khoản 2, Điều 4, khoản 2: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ tại khoản 1, Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; theo khoản 2, Điều 2 của Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; đồng thời, Điều 3 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp để xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng là do có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế, quy luật vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam; phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện. Cần khẳng định rằng, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nội dung cốt lõi phản ánh bản chất của Đảng ta, thể hiện rõ nét vị thế và sức mạnh của một Đảng lãnh đạo, cầm quyền; sức mạnh và uy tín của Đảng được kết tinh, hội tụ từ sức mạnh của dân tộc và nhân dân Việt Nam - Yếu tố quyết định sự thành công qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước./.
-----------------
* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của Đề tài: “Bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm” và vấn đề phát huy sức mạnh nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới”. Mã số KX04.11/21- 25
(1) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 710
(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 5
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 73
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 73
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 19
(6) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 9
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 69
(8), (9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27 - 28, 38, 51
(11) Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy truyền thống đại đoàn kết, huy động sức mạnh của toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 973, tháng 9-2021, tr. 6
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 249
(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 128, 119
(15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 128, 118
Theo Tạp chí Cộng sản