Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn hiện nay

(Mặt trận) -Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng ngời sáng về tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân, về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh như “một người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận” với một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Gần dân, hiểu dân, học dân, vì dân, lấy “dân làm gốc”, luôn làm việc ích quốc lợi dân, đó là phong cách Hồ Chí Minh, triết lý đạo đức Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Quy định 189-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính

HDBank đồng hành cùng Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 - 2029

 Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến cuộc sống nhân dân, tôn trọng ý kiến và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho Nhân dân. Người cán bộ cách mạng yêu thương, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân phải luôn gắn liền với ý chí đấu tranh và khát vọng mãnh liệt để làm cho Dân tộc được độc lập, Nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Đó là tư tưởng giải phóng Nhân dân, giải phóng con người một cách toàn diện, triệt để, thấm đượm lý tưởng chính trị, bản chất nhân văn và văn hóa Hồ Chí Minh. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là đề cao dân chủ, Nhân dân đứng ở vị trí trung tâm của quyền lực chính trị. Văn hóa đó được thể hiện sinh động qua thực hành văn hóa trong Đảng, trong các tổ chức của hệ thống chính trị và qua hành vi văn hóa vì dân của cán bộ, đảng viên.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhân dân là toàn thể những người Việt Nam yêu nước, bao gồm mọi người thuộc các dân tộc đa số và thiểu số, không phân biệt về nòi giống, giàu nghèo, tôn giáo, giới tính, giai tầng, địa vị... trong xã hội nhưng thống nhất thành một cộng đồng toàn dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh, lực lượng đoàn kết của Nhân dân. Người nhấn mạnh: "Cách mạng là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một hai người"; “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; “sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”... Đối với sự nghiệp cách mạng, nhân dân đóng vai trò quyết định thành bại, có lực lượng của dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. “Chúng ta phải biết rằng: lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”1.

Đảng ta là “con nòi” xuất thân từ Nhân dân lao động. Nhân dân là chiếc áo giáp thần kỳ bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ chính trị. Nhân dân đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để nuôi dưỡng, che chở, bảo vệ chế độ. Không có Nhân dân thì Đảng không có cơ sở để ra đời, tồn tại và phát triển. Chế độ chính trị được Hồ Chí Minh đề cập và phấn đấu xây dựng là chế độ của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ở đó, “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra”, “Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Trong đó “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”2. Bởi vậy, nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân thì phải bảo đảm trên thực tế“tất cả quyền bính thuộc về nhân dân”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước do dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước; nguồn gốc quyền lực, sức mạnh của nhà nước là ở Nhân dân; Nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước. Thể chế dân chủ đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị và thực thi quyền lực, Nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, Nhà nước ta không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời phong kiến, tư bản. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự thân, mà được Nhân dân ủy quyền, giao quyền. Vì vậy, Nhân dân phải có quyền đòi hỏi chính đáng và có nhu cầu tự nhiên và tất nhiên là phải kiểm soát được quyền lực mà mình đã giao để làm sao cho quyền lực đó không bị biến dạng, không bị tha hóa, không bị lạm quyền, lộng quyền. Đó cũng là cách thức để bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thể hiện rõ và sinh động nhất sự tôn trọng và phát huy vai trò của Nhân dân cũng như tính dân chủ triệt để của Nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và được thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý mà đạo luật cao nhất là Hiến pháp. Các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều thấm đượm tinh thần dân chủ đó.

Tôn trọng và phát huy sức mạnh, quyền làm chủ của Nhân dân chính là nhằm hướng vào mục đích mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho Nhân dân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc. Chế độ kinh tế - xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, trên cơ sở kinh tế - xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của Nhân dân ngày càng được cải thiện. Quá trình đó được thể hiện, nhân dân ta “Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”3. Bảo đảm giải quyết các quan hệ lợi ích phải một cách hài hòa, cá nhân và tập thể, Nhà nước và Nhân dân, công - tư đều có lợi.

Để tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới vấn đề dân chủ, xây dựng chế độ dân chủ mới, dân chủ trong chính trị, dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong văn hóa, xã hội. Theo Người, "phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”4. Thông qua các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân để nâng cao trình độ dân chủ; quá trình dân chủ hoá mở ra sự phát triển mới cho xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, muôn việc phải “lấy dân làm gốc”, phải phát huy dân chủ, đem trí dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân. Từ đó, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn nhận thức rõ bổn phận và trách nhiệm của mình trước Nhân dân, trước dân tộc để không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. “Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm gương cho dân. Muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn cho dân tin, phải thanh khiết”5. Sinh thời, V.I. Lênin từng cảnh báo: Đối với một Đảng Cộng sản đang lãnh đạo Nhân dân “quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”6. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lẽ tất nhiên phải ra sức phòng, chống bệnh quan liêu, xa dân. Hồ Chí Minh nhiều lần cảnh báo và chỉ ra những biểu hiện nguy hại của nó: cách xa quần chúng, không hiểu thấu tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, không học hỏi dân chúng, xem khinh quần chúng, sợ quần chúng phê bình,… Người nghiêm khắc chỉ ra có một bộ phận cán bộ, đảng viên “người thì cả đời chỉ loanh quanh trong trụ sở. Có người thì bao giờ “sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần. Khi gặp dân chúng thì đút tay vào túi quần mà “huấn thoại”, nói hàng giờ, nói bao la thiên địa. Song, những việc thiết thực cần kíp của địa phương, những điều dân chúng cần biết, thì không nói đến”7. Hồ Chí Minh từng lưu ý chúng ta: “Vì không gần gũi dân thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân thì không học hỏi được những kinh nghiệm và sáng kiến của dân. Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”8. Để “tẩy sạch” bệnh quan liêu, xa dân trong cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã đưa ra liều thuốc “đặc trị”, trong đó thực hành “4 phải”:

“- Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.

- Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.

- Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.

- Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư”9.

Những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân vừa là sự tổng kết sâu sắc về lý luận, vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc để giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tạo nên năng lực, gia tăng sức mạnh quy tụ lực lượng, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, với cách mạng. Bằng cách đó, Đảng cầm quyền vừa chống được nguy cơ tha hoá, biến chất, sai lầm về đường lối, vừa ngày càng trở nên trong sạch, vững mạnh hơn. Kiên định và trung thành với sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Người, thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã minh chứng, khẳng định: Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975); thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới đều gắn liền với ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, với việc phát huy được sức mạnh vĩ đại của quần chúng nhân dân. Qua đó, toàn dân tộc đã “chung tay gom góp dựng cơ đồ” để làm cho “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo tiếp tục khơi nguồn động lực, tiềm năng, trí tuệ của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đổi mới, Nhân dân Việt Nam vừa đóng vai trò là chủ thể hành động vừa là khách thể tác động lớn nhất của đổi mới. Nhân dân là lực lượng - suy cho cùng - quyết định thắng lợi mọi chủ trương, chính sách đổi mới và phát triển, đồng thời cũng là người được thụ hưởng đầy đủ nhất mọi thành quả của quá trình đó, theo phương châm như Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Điều đó có nghĩa là, Đảng đã huy động được tất thảy lực lượng của các giai tầng, của mỗi một người dân yêu nước, góp thành lực lượng toàn dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong đó, đã cụ thể hóa sinh động tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân với những quan điểm thiết thực, đó là: Quyền và lợi ích của Nhân dân là mục tiêu của mọi chủ trương, chính sách; đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân; phát triển kinh tế đồng thời với phát triển văn hóa, giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội trong từng chủ trương, chính sách phát triển. Một trong bốn bài học lớn được Đảng rút ra trong tổng kết sự nghiệp đổi mới 35 năm qua là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đổi mới phải dựa vào Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.

Để phát huy vai trò, sức mạnh của Nhân dân trong đổi mới và phát triển giai đoạn mới của cách mạng, quan điểm của Đảng ta là phải đảm bảo và phát huy thật hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây là cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân - cũng chính là “Nhân dân làm chủ thông qua Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng” (Chức năng cơ bản của toàn bộ cơ chế là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; quyền làm chủ của Nhân dân trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước; để bảo đảm định hướng chính trị - xã hội trong việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, cần có sự lãnh đạo của Đảng).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân hàm chứa những luận điểm rất sâu sắc, thể hiện văn hóa đạo đức của Đảng cầm quyền, là một nội dung rất quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, để Đảng đủ sức đảm đương, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trước Nhân dân, Dân tộc, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, “lấy dân làm gốc” phải luôn là yếu tố văn hóa thẩm thấu trong mọi hoạt động của Đảng Cộng sản cầm quyền. Đảng muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, kính dân, phải tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; phải “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”10.

Tổng kết một trong những bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng khẳng định: Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Ðảng. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, của dân chủ, đổi mới sáng tạo, Đảng tiếp tục lãnh đạo phát huy nguồn sức mạnh nội sinh to lớn trong các tầng lớp Nhân dân để “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”11.

Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những đị hướng, giải pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội. Trong quá trình đó, phải tiếp tục coi trọng sự tăng trưởng những giá trị của con người, lấy con người làm trung tâm, để “không ai bị bỏ lại phía sau”, để mỗi người dân cùng hưởng lợi thành quả của đổi mới và phát triển. Trong phương thức phát triển, thực hiện phát triển bền vững, bao trùm và hội nhập. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Trong quản lý kinh tế, coi trọng phát huy vai trò chủ thể của nhân dân, của doanh nghiệp, quan tâm xử lý hiệu quả những vấn đề xã hội mới phát sinh nhờ sự kết hợp giữa Nhà nước, thị trường và các thiết chế phi chính thức, phi lợi nhuận trên tinh thần giá trị nhân văn và đạo đức. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền các cấp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống yên bình của Nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, gắn với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, xa dân. Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ được củng cố là một bảo đảm vững chắc của sự ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị. Đảng không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình trước Nhân dân bằng bản lĩnh, trí tuệ, tính tiên phong; bằng đường lối đúng đắn; bằng sự phấn đấu, hy sinh của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng tổ chức đoàn kết, chặt chẽ, thống nhất; bằng kỷ luật nghiêm minh và tự giác; bằng phát huy dân chủ, xây dựng và củng cố mối liên hệ mật thiết với Nhân dân.

Tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân đã và đang truyền cho mỗi chúng ta nguồn năng lượng, ý chí và nhiệt tình cách mạng to lớn để phát huy cao độ ý chí, khát vọng, tinh thần đoàn kết, đổi mới sáng tạo, sức mạnh to lớn của “ý Đảng, lòng dân”. Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, mỗi cán bộ, đảng viên nguyện tiếp tục “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với Dân”, với phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh… phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”12; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nỗ lực phấn đấu xây dựng đất nước ta ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.335.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 8, tr.262.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 15, tr.682.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 7, tr.362.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 69.

6. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.44, tr. 426.

7,8,9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.433, 434.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.326.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập I, tr.215-216.

12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.5.

Đỗ Xuân Tuất, PGS,TS, Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Hồ Chí Minh