Vai trò trung tâm của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc - Những bài học lịch sử và các giá trị cần tiếp tục vận dụng sáng tạo trong giai đoạn phát triển mới của đất nước

(Mặt trận) - Lịch sử nhân loại do chính quần chúng nhân dân làm ra và trong mọi thời đại, quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản trong các cuộc cách mạng xã hội. Trải qua các thời kỳ lịch sử, bài học về sức mạnh nhân dân, vai trò của nhân dân luôn được nêu cao trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Vì vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tôn trọng và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay càng không thể thiếu vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân và đó cũng chính là yếu tố bảo đảm cho mọi thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử của tiến trình đổi mới.

Chỉ thị của Ban Bí thư về việc tổ chức Tết Ất Tỵ năm 2025

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương: Tinh gọn là phải rất gọn, chức năng và nhiệm vụ phải rõ ràng

Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng theo tinh thần Đại hội XIII - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Lắng nghe lời Bác dạy _Tranh: Tư liệu 

1- Triết học Mác đã chứng minh một cách thuyết phục rằng, người làm nên lịch sử nhân loại chính là quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trò cực kỳ to lớn không thể thay thế trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm vật chất cũng như sản phẩm văn hóa - tinh thần của mọi xã hội từ xưa đến nay. Lịch sử nhân loại cho thấy, trong mọi thời đại, tại tất cả quốc gia dù lớn hay nhỏ khắp các châu lục, quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản, là “sức mạnh đẩy thuyền” và đồng thời, cũng là “sức mạnh lật thuyền” trong các cuộc cách mạng xã hội hoặc những phong trào thay đổi chế độ cai trị.

Ở thế kỷ XX, thắng lợi của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên các châu lục, giành lại độc lập dân tộc từ tay các nước đế quốc và chủ nghĩa thực dân cực kỳ tàn bạo cũng là nhờ sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của các phong trào yêu nước tiến bộ và các đảng chính trị chân chính. Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917), Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) ở Việt Nam, cách mạng Trung Quốc (năm 1949) và các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Phi, ở khu vực Mỹ La-tinh,... trong thế kỷ XX là các minh chứng hết sức điển hình về sức mạnh của quần chúng nhân dân.

Bài học lịch sử vô cùng quý giá rút ra từ công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong thế kỷ XX cho thấy, dù chính quyền có trong tay một lực lượng vũ trang đông đảo và tinh nhuệ thế nào chăng nữa, nhưng nếu thiếu sự đồng thuận, thiếu sự gắn bó máu thịt với nhân dân, nhất là không được nhân dân ủng hộ, bảo vệ thì sớm hay muộn, cũng sẽ không thể thành công như mong đợi.

2- Tiếp thu một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác, rút kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, đặc biệt là khi xem xét cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đó là những cuộc cách mạng không triệt để, bởi vì “công nông vẫn cứ cực khổ”. Các cuộc cách mạng đó không thực hiện việc giải phóng các tầng lớp nhân dân bị áp bức, bị bóc lột, cho tất cả người nghèo khổ, và nhất là cho con người nói chung. Khiếm khuyết lớn nhất là, sau khi giành được chính quyền thì giới cầm quyền của các cuộc cách mạng đó đã đặt lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân bị áp bức, bị thống trị xuống hàng thứ yếu. Bởi vậy, trong quá trình vận động và tiến hành cuộc cách mạng giành độc lập cho dân tộc, cũng như trong những ngày đầu sau cách mạng và suốt cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc, trong đó có đế quốc to nhất thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đặt quần chúng nhân dân vào vị trí trung tâm của mọi công việc trong xã hội. Người nhiều lần nhấn mạnh rằng, nhân dân mới chính là người làm nên thành công của cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ được những thắng lợi mang tính lịch sử của dân tộc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều quan trọng bậc nhất trong mọi trường hợp, trong mọi công việc của quốc gia chính là sự đồng lòng, sự đùm bọc, sự che chở và sự ủng hộ quên mình của đại đa số quần chúng nhân dân đối với chính phủ, đối với chính quyền nhân dân các cấp và lực lượng vũ trang là con em của nhân dân. Do vậy, mọi cán bộ, đảng viên đều phải có trách nhiệm trực tiếp và thường xuyên làm công tác dân vận, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”(1); “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”(2); “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”..

Trong bài Dân vận đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949 ký tên X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một cách hết sức cô đọng về phạm trù dân như sau:

“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(3).

Chính vì thế, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác dân vận có tầm quan trọng đặc biệt, bởi lẽ:

“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.

Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân là hiểu rõ ràng: Việc đó có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.

Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”(4). Do vậy, Người căn dặn: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”(5).

Trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc ở thế kỷ XX, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ tài năng, thu phục và tập hợp được nhân dân thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc rộng rãi và mạnh mẽ; nhờ vậy, chúng ta đã đánh thắng tất cả kẻ thù hung bạo nhất, thu giang sơn về một mối. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thành công vì điều quan trọng hàng đầu chính là sự đồng thuận, đồng lòng và sự ủng hộ của toàn thể quần chúng nhân dân; bởi lẽ, “Nước lấy dân làm gốc”(6); “tất cả lực lượng của Đoàn thể và Chính phủ đều ở nơi Dân”(7); “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(9). Điều đó có nghĩa rằng, Đảng và các đảng viên của Đảng sẽ rất khó hoặc không thể nào đạt được mục đích của mình, thậm chí có thể thất bại, nếu không có nhân dân giúp sức, nếu không được nhân dân che chở, đùm bọc, bảo vệ, ủng hộ. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần căn dặn và cảnh báo rất mạnh mẽ đối với mọi cán bộ, đảng viên và các lực lượng vũ trang nhân dân: “Không được xa rời dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”(10).

Thấm nhuần tinh thần đó, Đại hội III của Đảng (năm 1960) khẳng định: “Sức mạnh của nhân dân là ở chỗ có Đảng tiên phong lãnh đạo; sức mạnh vô địch của Đảng là ở chỗ liên hệ mật thiết với quần chúng đông đảo. Đảng ta có truyền thống tốt đẹp liên hệ với quần chúng. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, khéo kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của quần chúng. Trong mọi công tác, Đảng ta đều quán triệt tinh thần tin tưởng và dựa chắc vào lực lượng quần chúng, đều nhằm phát động quần chúng lên, nâng cao tính tích cực và tính sáng tạo của họ trong cuộc đấu tranh giành giải phóng và xây dựng cuộc sống mới. Nhờ vậy, Đảng ta được quần chúng hết lòng tín nhiệm và ủng hộ”(11).

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm với thiếu nhi xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, ngày 10-6-2024 _Nguồn: vpctn.gov.vn 

Lần lượt các Đại hội Đảng kế tiếp sau Đại hội III đều chỉ ra vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; theo đó, bài học đầu tiên trong số 4 bài học kinh nghiệm quan trọng được Đại hội VI của Đảng (năm 1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước - rút ra là, “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(12). Đến tháng 1-2016, sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tại Đại hội XII, Đảng đã đúc kết: “đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”(13). Trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo xã hội thì càng cần thường xuyên quan tâm và hết sức chăm lo, củng cố, tạo được sự gắn bó, mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân. 

Ngày nay, dù tình hình thế giới có phức tạp và biến động khó lường, chúng ta vẫn đủ sức ngăn chặn và đánh bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước và nền độc lập của dân tộc, giữ vững trật tự, an ninh - an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, chúng ta có uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đang được đẩy mạnh.

Sau gần 40 năm đổi mới, một trong những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu trong lịch sử dân tộc được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng quán triệt chính là “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(14).

Do công việc đổi mới, xây dựng đất nước là “trách nhiệm của dân”, cho nên cần có giải pháp thật tốt để huy động tối đa khả năng trí tuệ, tài năng sáng tạo và sức dân cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thế giới vô cùng phức tạp, đầy những thách thức và biến động khó lường hiện nay. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước càng cần chú trọng thực hành dân chủ rộng rãi, coi dân chủ là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển; cần “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(15). Nói tóm lại, chúng ta phải đề cao và thực hành một cách thực chất “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”(16); phải “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân... Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(17).

Mục tiêu cao cả của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là mục tiêu cụ thể của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ là chăm lo, bảo vệ lợi ích tối cao, đầy đủ, toàn diện của nhân dân hướng tới dân giàu, nước mạnh. Các mục tiêu đó chỉ có thể đạt được nếu sức dân được nuôi dưỡng, được bồi đắp ngày một mạnh mẽ hơn và hiệu quả ngày một cao hơn. Do vậy, để phát huy tốt nhất vị trí trung tâm và vai trò nền tảng của nhân dân thì biện pháp quan trọng nhất và thật sự bền vững là phải khoan thư sức dânbồi dưỡng sức dân. “Khoan thư sức dân” đã từng là quốc sách dựng nước và giữ nước được cha ông ta thực hành vô cùng hiệu quả, tiêu biểu là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn từng nói: Khoan thư sức dân để thành kế dày rễ bền gốc, đó là sách lược giữ nước. Nguyễn Trãi - nhà văn hóa lớn của dân tộc - cũng đã từng xin nhà vua chăm sóc dân sao cho cả làng trong xóm đều không một tiếng khóc oán sầu. Kế tục các vị tiền bối đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định mạnh mẽ, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(18) và “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì”(19).

3- Trên đây là những bài học vô cùng quan trọng và quý giá mà cha ông ta đã từng đúc kết và cũng đã thực hiện hết sức hiệu quả trong nhiều giai đoạn của lịch sử nước nhà, nhất là mỗi khi dân tộc đối mặt với họa xâm lăng; được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát huy cao độ trong các cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc trong thế kỷ XX cũng như qua gần 40 năm đổi mới. Tiếp thu, kế thừa chọn lọc và vận dụng sáng tạo các bài học đó vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới là trách nhiệm nặng nề mà lịch sử trao cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Tin dân, dựa vào dân, huy động sức dân, đồng thời cần chú trọng bồi dưỡng sức dân, không chỉ về mặt vật chất, mà còn cả về mặt học vấn và đời sống tinh thần là yêu cầu nhất quán mà các Đại hội Đảng trước đây và Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Trong thời đại nhân loại đang ở trong cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, với tốc độ phát triển vượt bậc thì việc chúng ta thực hiện “quốc sách hàng đầu” về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là các nội dung cốt lõi để rút ngắn khoảng cách phát triển của nước ta với thế giới. Việc thực hiện tốt “quốc sách” này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hóa nước nhà theo hướng hiện đại. Khi nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, có được nền tảng học vấn căn bản ngày càng cao, thì việc huy động sức dân tiếp thu nhanh thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất, hiện đại nhất sẽ vô cùng thuận lợi. Trái lại, việc thiếu nền tảng học vấn căn bản trước yêu cầu ngày càng cao sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn và cũng sẽ rất khó để chúng ta hội nhập quốc tế một cách thật sự hiệu quả; đồng thời, cũng sẽ hạn chế khả năng khai thác và phát huy hiệu quả những giá trị truyền thống của dân tộc và của cách mạng. Bởi lẽ, một khi tri thức các mặt bị hạn chế thì người ta không thể nhận thức được cái gì có giá trị, cái gì còn giá trị và cái gì đã bị vượt qua; cái gì là mặt tích cực trong hội nhập quốc tế mà chúng ta cần rút ra và tiếp nhận, cái gì cần cải biến, cái gì phải kiên quyết loại bỏ. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, ngày 24-11-2023, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW, “Về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”.

Trong điều kiện thế giới và đất nước ta hiện nay, việc khơi dậy, phát huy sức mạnh của dân tộc, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(20) là mục tiêu nhất định phải đạt tới. Để đạt được mục tiêu quan trọng đó, chúng ta rất cần một cơ chế thật sự khoa học, đủ sức giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo của toàn dân, đặc biệt là của giới khoa học; động viên các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế và “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”(21); xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân”. Muốn vậy, cần hết sức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ và trách nhiệm làm chủ, vai trò chủ thể của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” như các kỳ Đại hội Đảng đã đề ra.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy rằng, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay và sắp tới đây, Đảng và Nhà nước ta cũng như cả hệ thống chính trị phải thật sự thấm nhuần và thực thi trong thực tiễn quan điểm về “dân là gốc”, “dân là chủ”, vị trí nền tảng và vai trò làm chủ, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Trong mọi quyết sách của Đảng và Nhà nước, nhân dân phải được đặt ở vị trí trung tâm và đóng vai trò chủ thể. Hiện nay, công cuộc xây dựng và phát triển mới của đất nước ta không thể thiếu vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân và đó cũng chính là yếu tố bảo đảm cho mọi thành công của đất nước ta./.

GS, TS NGUYỄN TRỌNG CHUẨN
Phó Chủ tịch Hội Triết học Việt Nam

--------------------------------

(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 453
(3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232, 232 - 233, 233 -  234
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 501
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 278
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 234
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278
(11) Văn kiện Đảng Toàntp, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 695
(12) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 28
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 69
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27 - 28
(15), (16), (17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 38, 51, 165 - 166
(18), (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64, 175
(20), (21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112, 116