Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ cán bộ bằng thể chế và một số khuyến nghị chính sách

(Mặt trận) - “Nuôi dạy và giữ gìn cán bộ” là vấn đề trọng tâm, bao trùm toàn bộ tư tưởng và thực tiễn lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo những chỉ dẫn của Người về vấn đề này là yêu cầu tiên quyết, góp phần bảo đảm thực hiện tốt chủ trương “xây dựng đội ngũ cán bộ”(1) và “làm tốt công tác bảo vệ cán bộ”(2) của Đảng ta trong giai đoạn mới.

MTTQ Việt Nam chung sức, đồng lòng thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Xoá nhà tạm, nhà dột nát: Hỗ trợ 60 triệu đồng/hộ khi xây mới và 30 triệu đồng/hộ khi sửa chữa

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự khai mạc Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII _Ảnh: TTXVN 

Bảo vệ cán bộ bằng thể chế - Tiếp cận từ tư tưởng Hồ Chí Minh

Cán bộ là đội ngũ những người ưu tú, giữ vị trí tiên phong trong lãnh đạo và tổ chức các hoạt động nhằm mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(3). Để có được đội ngũ cán bộ tốt, Người yêu cầu thực hiện tốt hai mảng công việc song trùng là “nuôi dạy cán bộ”(4) và “giữ gìn cán bộ”(5). Trong đó, nuôi dạy cán bộ là tạo lập các điều kiện, tiền đề giúp cán bộ có môi trường thuận lợi để phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực trước yêu cầu, nhiệm vụ công tác; giữ gìn cán bộ là bảo vệ trước các nguy cơ mất cán bộ.

Tuy không trực tiếp bàn luận, song thông qua các bài nói, bài viết về công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề bảo vệ cán bộ trên cả hai phương diện. Theo nghĩa rộng, bảo vệ cán bộ là hoạt động bao hàm trong đó cả phòng, chống các nguy cơ gây “mất cán bộ” và “nuôi dưỡng” bằng cách tạo ra các điều kiện thuận lợi cho cán bộ phát triển phẩm chất, năng lực. Với nghĩa này, toàn bộ công tác cán bộ, xét đến cùng chính là bảo toàn đội ngũ “cán bộ tốt” đáp ứng yêu cầu của “việc cách mạng”. Theo nghĩa hẹp, bảo vệ cán bộ chính là giữ gìn cán bộ, như giữ gìn vốn quý, trước các nguy cơ gây hại làm mất cán bộ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bảo vệ cán bộ bằng thể chế có thể khái quát những quan điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, để bảo vệ cán bộ hiệu quả, nhất thiết phải lập các khuôn khổ, nguyên tắc hoạt động của chế độ mới. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã xác định “Vấn đề thứ ba” trong “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” là “tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu”(6) để hình thành tổ chức, bộ máy và “phải có một hiến pháp dân chủ”(7) để thiết lập các khuôn khổ, nguyên tắc pháp lý nền tảng cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong chế độ mới. Các khuôn khổ, nguyên tắc này là nền tảng định hình những việc được làm, nên làm và những việc không nên làm, không được làm của mọi cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của chế độ mới. Khi các khuôn khổ, nguyên tắc hoạt động được xác lập thì cán bộ và cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ có những nền tảng chuẩn mực để tuân theo, biết những nghiêm cấm để tránh xa, nghĩa là cán bộ được làm việc trong hệ thống khuôn khổ, nguyên tắt này.

Thứ hai, xác lập “lối làm việc” của cán bộ và cơ quan quản lý, sử dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy cán bộ phát triển tốt hay suy thoái rồi bị đào thải đều thể hiện trong quá trình thực thi công vụ, nên “sửa đổi lối làm việc” là một trong những yêu cầu tiên quyết. Nhiều sai lầm, khuyết điểm, căn bệnh trong lối làm việc được Người chỉ ra cặn kẽ và xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến “mất cán bộ”. Để “giữ gìn cán bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải sửa chữa lối làm việc cho hợp lý”(8). Người nêu những nguyên tắc nền tảng cho lối làm việc của cán bộ, bao gồm: “Lề lối làm việc phải dân chủ”(9), “theo đúng đường lối của Chính phủ và Đoàn thể, hợp với lòng dân”(10); “Lề lối làm việc: Mọi việc bất kỳ to nhỏ, phải có kế hoạch, phải bàn bạc kỹ. Phải giải thích cho dân hiểu rõ, sao cho dân vui vẻ thi đua làm. Hết sức tránh bệnh quan liêu, bệnh mệnh lệnh”(11). Tuân theo các nguyên tắc này nghĩa là cán bộ đi đúng con đường trở thành “cán bộ tốt”; thực hiện không đúng nguyên tắc này, thậm chí vi phạm, làm ngược, đồng nghĩa cán bộ có biểu hiện chệch hướng, sa vào “cán bộ kém”, có nguy cơ bị đào thải. “Giữ gìn cán bộ” là mục tiêu chính yếu của “phong trào sửa đổi lối làm việc”.

Thứ ba, xác lập yêu cầu, nguyên tắc trong quản lý, sử dụng cán bộ. Việc quản lý, sử dụng cán bộ có liên hệ mật thiết đến bảo vệ cán bộ. Trong thực tế, cùng một khuôn khổ thể chế, song với thực tiễn quản lý, sử dụng khác nhau, có cơ quan tạo cảm hứng, động lực cho cán bộ gắn bó lâu dài và phát triển; ngược lại, có cơ quan tạo tâm lý tiêu cực dẫn đến nguy cơ mất cán bộ. Người thẳng thắn chỉ ra “khuyết điểm lớn” của một số cơ quan là “thiếu óc tổ chức”. Khuyết điểm này vừa khiến “việc cũng đến hỏng”, vừa không quản lý, sử dụng cán bộ tốt dẫn đến nguy cơ “mất cán bộ”(12). Cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ tốt tức là thực hiện tốt các nguyên tắc, khuôn khổ hoạt động của chế độ mới, thực hành “lối làm việc” mới, kiến tạo môi trường với những điều kiện thuận lợi cho cán bộ rèn luyện, phát triển. Việc quản lý, sử dụng cán bộ tốt cũng góp phần loại trừ những nguy cơ tiêu cực từ cơ chế quản lý và môi trường làm việc gây hại đến cán bộ. Người nhấn mạnh: “Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại. Thí dụ: người viết giỏi nhưng nói kém lại dùng vào những việc cần phải nói. Người nói khéo nhưng viết xoàng lại dùng vào công việc viết lách. Thành thử hai người đều không có thành tích”(13).

Mục tiêu của việc bảo vệ cán bộ là giúp “cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc”(14). Trong quản lý, sử dụng cán bộ, Người nêu ra những định hướng nguyên tắc gồm: Tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; dựa vào công việc và sở trường của cán bộ để giao việc; kỷ cương gắn liền với tình đồng chí yêu thương; chí công vô tư; cảnh giác, đấu tranh với thành phần xấu. Theo Người, làm được như vậy là giúp cho Đảng có “cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc”(15). Không làm được như vậy sẽ có “một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”(16). 

Thứ tư, xác lập yêu cầu, nguyên tắc trong kiểm soát và đánh giá cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem kiểm tra, kiểm soát là nhân tố quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo đúng. Người yêu cầu “phải luôn luôn kiểm soát cán bộ”(17) để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Khi phát hiện khuyết điểm thì phải tùy nặng nhẹ mà xử trí cho đúng mức để mọi người biết mà tránh. Xử lý kỷ luật phải tuân thủ phương châm “giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”(18). Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải hết sức chú ý vấn đề dân chủ và kỷ luật. Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật”(19). Đánh giá cán bộ để có cơ sở “giữ gìn cán bộ”. Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Yêu cầu, chuẩn mực dùng để đánh giá cán bộ phải phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh, khách quan. Đánh giá cán bộ phải toàn diện, xét người và xét việc, cả quá khứ, hiện tại và tiềm năng trong tương lai. Khi xem xét phải chú ý cả hiện tượng và bản chất, không nên chỉ xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ toàn bộ công việc của cán bộ đó.

Thứ năm, xác lập quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ, “đoàn thể”, nhân dân trong “giữ gìn cán bộ”. Theo Hồ Chí Minh, bảo vệ cán bộ bao gồm tự bảo vệ và được bảo vệ. Tự bảo vệ nghĩa là cán bộ chủ động, tự giác thực hiện các biện pháp phòng vệ trước các nguy cơ hoặc đấu tranh trước các “kẻ địch” đang tấn công, gây hại. Dù là yêu cầu tự thân, song mỗi cán bộ chỉ có thể tự bảo vệ trên cơ sở được xác lập rõ quyền hạn, trách nhiệm công tác và mối quan hệ với các chủ thể khác. Theo Người, cán bộ có quyền được thực thi công vụ theo quy định, thụ hưởng chính sách, được ý kiến, chăm lo, được che chở bảo vệ.

Theo Hồ Chí Minh, “cán bộ tốt là làm đúng nghĩa vụ của đảng viên”(20), trong đó có kiên quyết đấu tranh chống kẻ địch của cách mạng. Để cán bộ có thể tự bảo vệ, Người nêu cơ chế: “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh”(21). Đó chính là mối quan hệ giữa các cán bộ trong tự bảo vệ. Được bảo vệ nghĩa là cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ và nhân dân thực hiện các hoạt động bảo vệ cán bộ. Cơ quan, tổ chức có quyền quản lý, sử dụng cán bộ, đồng thời có trách nhiệm phải “nuôi dạy” và “giữ gìn cán bộ”. Để tẩy sạch các căn bệnh, khuyết điểm gây tổn hại đến cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra năm cách: Chỉ đạo (giao phụ trách nhưng định rõ phương hướng, cách thức công tác); nâng cao (tìm cách cho học tập); kiểm tra; cải tạo; giúp đỡ (bảo đảm điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc). Người nhấn mạnh, dựa vào dân để “giữ gìn cán bộ” là tất yếu thắng lợi. Nhân dân có “trăm tai nghìn mắt” nên thấy hết mọi điều, từ ưu điểm đến hạn chế. Theo Người, “Nhân dân thì giúp Chính phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ”; “tất cả các cơ quan Nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”(22). Nhân dân bãi miễn cán bộ thông qua cơ chế dân chủ theo quy định của pháp luật.

Một số khuyến nghị hoàn thiện thể chế bảo vệ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán xác định bảo vệ cán bộ là nhiệm vụ tất yếu, quan trọng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đã đề ra chủ trương: “Khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(23). Thực hiện chủ trương của Đại hội, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung” với yêu cầu  “cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung”. Đặc biệt, tại Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, của Chính phủ, “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung” đã khẳng định “Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung phải được khuyến khích, bảo vệ”. Để việc bảo vệ cán bộ bằng thể chế ngày càng thiết thực và hiệu quả, trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện một số quan điểm:

Một là, thể chế bảo vệ cán bộ không trái với các khuôn khổ, nguyên tắc vận hành hệ thống chính trị, đặc biệt là Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Điều này đặt ra khi một số quy định pháp luật còn bất cập, không phù hợp thực tiễn, cần sửa đổi, bổ sung hoặc trong trường hợp cần ban hành các quy định mới. Trong trường hợp đó, thể chế bảo vệ cán bộ không được trái Điều lệ Đảng.

Hai là, thể chế bảo vệ cán bộ phải xác định được các chủ thể tham gia với những quy định chi tiết về quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ. Hiện nay, thể chế khuyến khích bảo vệ cán bộ “6 dám”(24) cần xác định được lực lượng thực hiện với những quy định cụ thể, chi tiết về chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ. Nhiều văn bản pháp quy(25) trong hệ thống chính trị đã quy định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ, công chức và cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, những quy định về quyền và nghĩa vụ giám sát của nhân dân đối với hệ thống chính trị. Dựa trên các quy định này, thể chế bảo vệ cán bộ cần cụ thể hóa, chi tiết hóa, bổ sung thêm để trả lời rõ ràng, xác đáng những câu hỏi lớn đang đặt ra: Ai bảo vệ cán bộ? Nội hàm của quyền bảo vệ cán bộ? Nội dung của trách nhiệm bảo vệ cán bộ? Phối hợp như thế nào trong bảo vệ cán bộ?...

Ba là, thể chế bảo vệ cán bộ cần xác lập được các tiêu chí đánh giá cụ thể, phù hợp. Các tiêu chí này là cơ sở để xác định xếp loại cán bộ. Trong đó, cần chú ý khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm. Xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cần cụ thể hóa hơn nữa các tiêu chí đánh giá, để cán bộ biết khuôn khổ của “6 dám” để thực hiện; cơ quan quản lý, sử dụng có thẩm quyền biết khuôn khổ để “xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm”. Các tiêu chí này cũng là cơ sở để tổng kết, đánh giá “đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ”, qua đó quyết định nhân rộng thực hiện, điều chỉnh hoặc không tiếp tục thực hiện.

Bốn là, thể chế bảo vệ cán bộ cần xác lập được cơ chế kiểm soát cán bộ và phương cách thực hiện. Cơ chế kiểm soát cán bộ nói chung, cán bộ “6 dám” nói riêng cần xác lập trên nguyên tắc: (i) thực hiện kiểm soát để thúc đẩy cái mới, cái tiến bộ chứ không phải làm cho thoái giảm; (ii) xác định rõ chủ thể với quyền hạn, trách nhiệm cụ thể; (iii) vừa tuân theo quy trình kiểm tra, kiểm soát chung, vừa phải xác định những đặc điểm riêng. Về phương cách, cần làm rõ nội hàm, phạm vi, cách thức của kiểm soát từ trên xuống, từ dưới lên, kiểm soát nội bộ, kiểm soát từ bên ngoài bởi nhân dân. Trong kiểm soát, cần minh định rõ những biểu hiện là nguy cơ, sai phạm hiện hữu và các mức độ của sai phạm. Đó là cơ sở để xác định mức độ, biện pháp kiểm soát và hình thức, biện pháp xử lý sau đó./.

--------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 187
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 188
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 280
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 313
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 314
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 7        
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 16
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 312
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 397
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 6, tr. 489
(12) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 42
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 283
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 319
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 320
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 320
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 314
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 361
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 574
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 375
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 312
(22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 375             
(23) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 179
(24) Bao gồm: Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn, thử thách
(25) Luật Cán bộ, công chức; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…