Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa qua việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay

(Mặt trận) - Chính sách xã hội là bộ phận của hệ thống chính sách phát triển quốc gia về mọi mặt của đời sống xã hội; được cụ thể hóa theo chủ trương, đường lối của Đảng và được đặt trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, đồng thời thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.

Một số vấn đề cơ bản về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền

Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Quy định 189-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và thăm nơi ở, làm việc của Người. (Ảnh: TTXVN)

MỤC TIÊU CỦA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Ngay từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới (năm 1986), Đảng ta đã xác định, một mặt phải tập trung phát triển kinh tế để sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng song đồng thời cũng phải ưu tiên phát triển xã hội, nhất là xây dựng các chính sách xã hội để đảm bảo mọi mặt đời sống của nhân dân. Đại hội VI nêu rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc …, coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1). Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) tiếp tục nhấn mạnh thêm mục tiêu của việc xây dựng chính sách xã hội ở Việt Nam là vì con người, nhằm phát huy mọi tiềm năm của con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(2). Điều này tiếp tục được Đảng ta chỉ rõ hơn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011):  “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách….”(3). Đây chính là quan điểm chỉ đạo nhất quán, xuyên suốt của Đảng ra về xây dựng chính sách xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.

Cùng với sự bổ sung, phát triển quan điểm của Đảng, hệ thống pháp luật và chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Điều 58, 59 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) có nhiều nội dung quy định về chính sách xã hội trên một số lĩnh vực cơ bản của đời sống. Đó là chính sách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân: “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” (Điều 58); chính sách bảo vệ, chăm sóc cho nhóm người yếu thế trong xã hội: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác (Điều 59); chính sách an sinh xã hội cho nhân dân: “Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở” (Điều 59);... Nhờ những thay đổi đó, diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực xã hội khác. Do vậy, “sau hơn 35 năm đổi mới, hệ thống chính sách xã hội đã cơ bản đảm bảo công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(4).

Có thể nhận thấy rõ mục tiêu nhất quán của Đảng ta trong xây dựng chính sách xã hội ở Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới là vì con người, đặt con người lên trên hết theo đúng phương châm: “Đặt con người vào trung tâm của mọi sự phát triển”. Điều đó thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới theo đúng phương châm mà chủ nghĩa Mác luôn nêu cao: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

 

TÍNH ƯU VIỆT CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI TRONG THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; các ban, ngành, địa phương đã cụ thể hóa thành các chính sách cụ thể trên các lĩnh vực, bao trùm mọi mặt đời sống con người. Cùng với đó, quá trình tổ chức thực thi chính sách xã hội cũng từng bước được hoàn thiện theo những quy định chặt chẽ. Các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, công tác gia đình và bình đẳng giới. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và nhóm người yếu thế trong xã hội được cải thiện đáng kể, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ. Đúng như Tổng Bí thư khẳng định, “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(5).

Những kết quả nổi bật của Việt Nam trong thực hiện chính sách xã hội được thể hiện trên những phương diện chủ yếu như sau:

Về chính sách lao động - việc làm, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách lao động - việc làm như: hoàn thiện thể chế thị trường lao động, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, xây dựng quỹ hỗ trợ việc làm, có chính sách hỗ trợ lao động di chuyển, xuất khẩu lao động… Cơ cấu lao động được phân bổ trong các ngành, trong các loại hình kinh tế hợp lý hơn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế. Số lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên. Mục tiêu đặt ra là, “đến năm 2025, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 68 - 74%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30%. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 3,5”(6).

Về chính sách xóa đói, giảm nghèo, thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (2002), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP), Quyết định số 1971/QĐ-TTg về việc cho 30 huyện khác nằm ngoài chương trình thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Quyết định số 2324/QĐ-TTg, ngày 19-12-2014 về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập trung nguồn lực cao nhất cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Ngoài ra, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách đặc thù trên địa bàn các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, như chính sách chăm sóc, giao khoán và bảo vệ rừng; chính sách khai hoang, phục hóa, tạo ruộng bậc thang; chính sách tăng cường hỗ trợ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo…

Nhờ những nỗ lực đó, thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao trên tất cả các khía cạnh và tiêu chí. Nước ta chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, không còn tình trạng hộ thiếu đói kinh niên, tình trạng nghèo đã chuyển từ diện rộng ở các vùng, miền sang cục bộ ở một số vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn và trong một số nhóm dân cư. “Tỉ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2020 còn 5,4%, dự kiến tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 1-1.2%/ năm đến năm 2025”(7). Việt Nam đã sớm hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói.

Về hệ thống bảo hiểm xã hội, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội ngày càng được hoàn thiện. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 đã mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tùy theo khả năng ngân sách từng thời kỳ; tăng cường các biện pháp bảo đảm bền vững tài chính để bảo đảm sự bình đẳng trong tham gia bảo hiểm xã hội giữa các thành phần kinh tế, nâng cao các biện pháp xử lý đối với các vi phạm về chính sách bảo hiểm xã hội … Đối tượng tham gia các hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Số người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên hàng năm.

Về chính sách người có công, Nhà nước ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với nước, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành có tác dụng to lớn, sâu rộng về chính trị, xã hội được toàn dân hưởng ứng. Ưu đãi xã hội đối với người có công bước đầu đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, công khai, công bằng xã hội. Người có công được chăm lo, đền ơn đáp nghĩa, được ưu tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm. Những trường hợp như thương binh nặng, thân nhân liệt sỹ, bà mẹ Việt Nam anh hùng được ưu tiên về nhà ở, đất ở, được chăm lo phụng dưỡng về vật chất và tinh thần của địa phương và các đoàn thể xã hội.

Về chính sách hỗ trợ xã hội, đối tượng của hỗ trợ xã hội có thể là cá nhân, gia đình, một địa phương, từng vùng, miêng gặp khó khăn hay gặp nạn. Ở nước ta hiện nay, hỗ trợ xã hội bao gồm: Hỗ trợ thường xuyên (người tàn tật, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa…); Hỗ trợ xã hội đột xuất (cứu đói, cứu trợ thiên tai). Hỗ trợ thường xuyên không ngừng có sự mở rộng đối tượng được hưởng nên số đối tượng gia tăng nhanh. Người già neo đơn, không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, người tàn tật không có người nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở bảo trợ xã hội, được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm,…

Hỗ trợ đột xuất áp dụng cho những rủi ro về dịch bệnh, thiên tai, mất mùa là những yếu tố bất thường ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Nhà nước có các chính sách, chương trình hỗ trợ đột xuất (bằng tiền mặt, lương thực…) cho đồng bào trước những rủi ro đó. Công tác hỗ trợ (cứu trợ) trong những năm qua được triển khai tương đối kịp thời, có sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự tham gia tích cực của cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương, doanh nghiệp,..

Những kết quả nổi bật trong thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam thời gian qua đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng trong thực hiện chiến lược kép: phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thông qua các chính sách bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này cũng được Tổng Bí thư nhấn mạnh chủ trương nhất quán của Đảng trong suốt thời kỳ đổi mới. Đó là “không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”(8).

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội. “Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”(9). Quan điểm này tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định, phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 1980 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội như chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện nay, Việt Nam có hơn 70% dân số sử dụng Internet, Việt Nam được đứng vào nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển… Đây là những bằng chứng không gì thuyết phục hơn nhằm khẳng định đường lối đổi mới nói chung và chủ trương phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng ta là đúng đắn, mang lại diện mạo hoàn toàn mới cho đất nước và làm thay đổi về chất cả đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Như vậy, sau hơn 35 năm đổi mới, chủ trương, đường lối của Đảng về chính sách xã hội không ngừng được bổ sung và ngày càng hoàn thiện hơn, vừa đảm bảo tính thống nhất, vừa bảo đảm tính toàn diện, bao trùm. Cùng với đó, những quy định của pháp luật cũng năng lực tổ chức thực hiện của Nhà nước cũng như các ban, bộ, ngành, địa phương cũng không ngừng được cải thiện. Với mục tiêu “tất cả vì con người”, “lấy con người là trung tâm”, chính sách xã hội đã thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng; đồng thời cung cấp luận cứ khoa học để đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm sai trái, thù địch về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay./.

TS. Lê Thị Chiên
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

----------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, H, 1987, tr.86.

2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự Thật, H, 1991, tr.13.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, H, 2011, tr.79.

(4) Nguyễn Viết Thông: Những bước tiến lớn trong xây dựng và thực thi các chính sách đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2022, tr.11

(5) (8) (9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 2021, tr.33,

(6) (7) Phạm Văn Linh: Chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đổi mới, Tạp chí Dân vận, số 8/2022, tr.14.