(Mặt trận) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục đặt ra yêu cầu nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để định hình một nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân.
|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội_Ảnh: TTXVN |
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính quốc gia
Một là, xây dựng nền hành chính hợp hiến, hợp pháp
Chế độ dân chủ cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(1). Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến là nhà nước của dân, do dân và vì dân; mang bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Do vậy, nền hành chính nhà nước phải phù hợp với bản chất của nhà nước, của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, gắn bó với quần chúng nhân dân, phục vụ nhân dân và lấy lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc làm cơ bản.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”(2). Điều này cho thấy vai trò, tầm quan trọng của hiến pháp trong xây dựng một nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền, trước hết là hiến định chủ quyền của quốc gia - dân tộc, ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Với tính chất quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, lập Chính phủ chính thức cũng như ban hành Hiến pháp. Cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 được tiến hành thắng lợi với chế độ phổ thông đầu phiếu. Qua bầu cử Quốc hội khóa I và các kỳ bầu cử Quốc hội sau đó, các quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của công dân từng bước được thực thi. Bản Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận gần như tuyệt đối của các đại biểu (240/242 phiếu). Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chế định bản chất cách mạng, tính dân chủ, nhân dân và pháp quyền thành những điều khoản cụ thể. Đây chính là quá trình hiện thực hóa, pháp chế hóa, thể hiện tính ưu việt của một chế độ mới luôn mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.
Cùng với Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cao nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Trước đó, từ rất sớm, Người đã yêu cầu: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(3). Pháp luật là tối thượng và phải có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, bất kể cá nhân hay tổ chức đều phải tuân theo. Việc xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp gắn với xây dựng một nền hành chính dân chủ, liêm chính, khoa học luôn là vấn đề thường trực trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hướng tới xây dựng “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt” của nhân dân.
Hai là, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân
Lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất khi thiết kế nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “1- Làm cho dân có ăn; 2- Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân có học hành”(4). Đây cũng chính là ham muốn tột bậc của Người, rằng: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(5). Do vậy, nền hành chính nhà nước phải vì: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đây là cơ sở để hướng mọi nỗ lực của các cơ quan hành chính vào phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngày 3-6-1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trước nhân dân: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(6). Điều đó có nghĩa là Đảng và Chính phủ không chỉ lo những vấn đề lớn, mà còn cả những vấn đề thiết thực đối với nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền hành chính phục vụ, một nền hành chính của dân, do dân và vì dân; công chức hành chính là đầy tớ của dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải “đè đầu cưỡi cổ” nhân dân như trong thời phong kiến, thực dân. Cá nhân hay tổ chức làm hại dân thì dân có quyền phê bình, thậm chí “đuổi cổ” họ. Với tư tưởng đó, nền hành chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự độc đáo, sáng tạo và mang tính dân chủ sâu sắc. Một nền hành chính mạnh mẽ, sáng suốt là nền tảng cho việc tổ chức nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, làm cho hiệu lực pháp luật được triển khai trong thực tế.
Ba là, xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
Xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của đất nước.
Trong quá trình xây dựng nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại các tiêu cực nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, liêm chính, tinh gọn và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thể hiện bản chất nhà nước kiểu mới, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ra sức phục vụ nhân dân. Hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phụ thuộc lớn vào hiệu quả hoạt động của các thành phần cấu thành nên nó. Do vậy, cần phải xây dựng một bộ máy hành chính đồng bộ, khoa học, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra một phương châm nhất quán: gọn nhẹ, có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”(7). Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Để có nền hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần có quy trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ phù hợp, đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng. Về số lượng, trước yêu cầu ngày càng lớn của cách mạng, Người rất quan tâm đến số lượng cán bộ, công chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hình thức chọn cán bộ để bảo đảm về số lượng, như qua kỳ thi, qua xét học bạ hay văn bằng và đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Cùng với đó, Người đã ra thông lệnh Tìm người tài đức để tuyển chọn cán bộ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”(8). Ngoài ra, Người còn chỉ ra các nguồn nhân tài từ các nhân sĩ, trí thức trong chế độ cũ có tinh thần yêu nước; từ các tổ chức đoàn thể cách mạng và rộng rãi trong nhân dân.
Về chất lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Thứ nhất, cán bộ phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Tổ quốc. Đây là phẩm chất đạo đức cao nhất đối với người cách mạng bởi trong các mối quan hệ thì mối quan hệ với Tổ quốc, với dân tộc là thiêng liêng và cao quý nhất. Cán bộ nhận thức đúng đắn được vấn đề này thì họ mới có thể toàn tâm, toàn ý phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng và đặt quyền lợi của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, trước hết. Lòng trung thành của cán bộ phải được thể hiện qua công việc hằng ngày, trong mọi lĩnh vực và trong hiệu quả công tác. Trong lịch sử, rất phổ biến tâm lý làm quan để “cả họ được nhờ”, rồi nghiễm nhiên trở thành “dân chi phụ mẫu”. Còn trong xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “trả lại” cán bộ, công chức nhà nước về đúng vị trí là công bộc của nhân dân. Mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động trong sáng, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc. Cán bộ phải hiểu rằng, quyền lực mình đang có trong tay là do dân uỷ thác chứ không phải tự nhiên mà có, phải dùng quyền lực đó để phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Nhân dân mới là người có quyền lực to nhất, do vậy, mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động theo phương châm: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(9).
Thứ hai, cán bộ phải có năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức, viên chức phải bảo đảm trình độ về chuyên môn, đạo đức. Ngày 20-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76-SL, ban hành Quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòà, Điều 17 của Sắc lệnh quy định rõ: “Tùy nhu cầu công việc, cấp quản trị công chức sẽ mở những kỳ thi tuyển dụng nhân viên. Kỳ thi phải công bố trước ngày thi ít nhất là 2 tháng. Thể lệ và chương trình thi vào mỗi ngạch sẽ do nghị định Bộ sở quản ấn định, sau khi thỏa thuận với Bộ Quốc gia Giáo dục và Bộ Nội vụ”. Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 10-NV2, quy định rõ các phần thi, gồm: “phần 1: một bài luận về văn chương, công dân, giáo dục và thường thức (làm bài trong 2 giờ, được tính hệ số 3); phần 2: một bài địa lý và sử ký (theo chương trung trung học phổ thông, 1 giờ 30 phút, hệ số 2); phần 3: một bài về tổ chức bộ máy chính quyền, Hội đồng nhân dân tỉnh, xã và ủy ban kháng chiến hành chính các cấp (3 giờ, hệ số 3); phần 4: một bài đánh máy chữ (30 phút, hệ số 2); phần 5: một bài tốc ký (Nếu thí sinh tình nguyện) và một giờ dịch ra tiếng Việt (hệ số 2); đồng thời, giới hạn nội dung cụ thể cho từng phần thi và quy định thang điểm là từ 0 đến 20 điểm. Thí sinh phải đạt 12/20 điểm mới trúng tuyển”(10). Thông qua hình thức thi tuyển công chức theo Sắc lệnh 76 và Hướng dẫn số 10 của Bộ Nội vụ, Nhà nước sẽ có được đội ngũ cán bộ nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, có tri thức cơ bản trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng với tinh thần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Thứ ba, cán bộ phải là người dám phụ trách, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ phải luôn có tinh thần dám phụ trách, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn cán bộ, đảng viên “phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11).
Thứ tư, cán bộ phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự trong sạch, vững mạnh của nhà nước, của nền công vụ. Việc thường xuyên tự phê bình và phê bình là nhằm giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực công tác, đồng thời để chăm lo xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải thực sự liêm khiết. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc trong lòng”, “giặc nội xâm”, là căn bệnh gốc sinh ra thói “quan cách mạng”, quan liêu, tham ô, lãng phí, ăn cắp của công. Người cho rằng, nếu Đảng, Chính phủ, đồng bào và chiến sĩ “ra sức chống giặc ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm” là chưa làm tròn bổn phận của người cách mạng, người yêu nước.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nền hành chính nhà nước ở nước ta qua hơn 36 năm đổi mới.
Qua hơn 36 năm đổi mới, việc cải cách hành chính trên một số lĩnh vực có bước đột phá(12). Hệ thống thể chế hành chính nhà nước được cải cách, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, tinh thần dân chủ trong cải cách hành chính được đề cao. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tiến hành đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành chính và công bố kết quả rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hệ thống tổ chức hành chính nhà nước từng bước được tinh gọn từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm, chính phủ số, nền hành chính số từng bước định hình hướng tới một nền hành chính hiện đại. Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chính phủ đã tiến hành tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Các nguồn lực vật chất cần thiết được bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước; các cơ quan, đơn vị đã chủ động tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động...
Mặc dù vậy, việc cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước(13), nhiều hạn chế chậm được khắc phục, như tính đồng bộ chưa cao giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chất lượng thể chế thấp, thủ tục hành chính còn rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh, chất lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế, việc tinh giản biên chế có nơi, có chỗ còn mang tính hình thức, chế độ, chính sách tiền lương chưa có đột phá. Chính phủ số và nền hành chính số còn phát triển chậm và chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương...
Trước tình hình đó, Đảng ta yêu cầu: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”(14). Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng nền hành chính nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng nền hành chính nhà nước phải trên cơ sở giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, chăm lo đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Pháp luật phải có tính nhân văn, hướng thiện, vì con người. Công tác xây dựng, cải cách nền hành chính phải gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, phát huy vai trò giám sát của nhân dân. Đây là giải pháp mang tính tất yếu, khách quan để khắc phục những bất cập, hạn chế của nền hành chính. Từ đó, nâng cao tính chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức để việc cải cách hành chính hướng đến công khai, minh bạch và dân chủ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Đây cũng là mục tiêu của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao khả năng phối hợp giữa các cấp, các ngành để đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động.
Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước đòi hỏi hết sức chú trọng công tác cải cách, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho nhân dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực với nhân dân, gây bức xúc trong xã hội. Đồng thời, phải lấy hiệu quả công việc và sự hài lòng, sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí đánh giá quan trọng đối với tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, chống các hiện tượng tiêu cực gây phiền hà, mất thời gian, công sức của nhân dân. Điều đó sẽ góp phần đổi mới, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính nhà nước phải đề cao trách nhiệm cá nhân trong giải quyết khiếu kiện của công dân đúng quy định của pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính phải được thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, với quyết tâm cao nhằm xóa bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.
Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước hoàn thiện các tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân.
Xây dựng nền hành chính nhà nước phải hướng tới giữ vững chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa vì thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Chỉ có phát huy dân chủ mới giúp cho cán bộ đề ra nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công tác. Hơn thế, việc phát huy dân chủ là để phát huy quyền là chủ và làm chủ của nhân dân theo luật định. Do đó, các mục tiêu, giải pháp xây dựng, cải cách và hoàn thiện nền hành chính phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân và gắn bó chặt chẽ với quá trình đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững trật tự, kỷ cương, được bảo đảm bằng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật, khác hoàn toàn với thứ dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(15).
Xây dựng Luật về đạo đức công vụ và thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức.
Khi đề cập đạo đức công vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến các chuẩn mực: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phải có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao; có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc; chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, xây dựng Luật về đạo đức công vụ. Đây là công cụ để điều chỉnh hành vi đạo đức cho cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay và từng bước tiến tới xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.
Đồng thời, trong quá trình cải cách hành chính cần thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức; từng bước hiện đại hóa nền công vụ nước nhà, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong nền hành chính, xây dựng bộ máy hành chính thành bộ máy phục vụ, kiến tạo, của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Từ những tư tưởng chỉ đạo của Người, nền hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cùng với dân tộc hoàn thành trách nhiệm lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến, kiến quốc và xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành người đặt nền móng cho việc xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Tư tưởng của Người mãi soi đường cho việc xây dựng nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân./.
--------------------------
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 3, 7
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 473
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 175
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 504
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 21
(10) Công báo Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1-1950): Thông tư số 10-NV2 của Bộ Nội vụ, ngày 20-1-1950
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611 – 612
(12) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 72
(13), (14) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 89 - 90, 176
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173
Theo Tạp chí Cộng sản