Tăng cường liên minh công nhân - nông dân - trí thức - Vấn đề chiến lược của cách mạng nước ta hiện nay

(Mặt trận) - Ở nước ta hiện nay, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là sự đoàn kết, hợp tác, liên kết, giúp đỡ lẫn nhau… của công nhân, nông dân và trí thức nhằm thực hiện những nội dung, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới, đem lại lợi ích chính đáng không chỉ cho một lực lượng, mà cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời góp phần chung vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết đề ra giải pháp tăng cường liên minh công - nông - trí thức, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chỉ thị của Ban Bí thư về việc tổ chức Tết Ất Tỵ năm 2025

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương: Tinh gọn là phải rất gọn, chức năng và nhiệm vụ phải rõ ràng

Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng theo tinh thần Đại hội XIII - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Ông Đỗ Văn Chiến - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và ông Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trao Bằng khen cho các doanh nghiệp. Ảnh: Hải Nguyễn  

Liên minh công - nông - trí thức là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản nói chung và của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Ở nước ta cũng vậy, liên minh công - nông - trí thức mang tính cơ bản, vừa trước mắt, vừa lâu dài và quyết định đến sự thành bại của cách mạng, sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, tầm quan trọng này đã được Đại hội VII ghi nhận tại Cương lĩnh (1991), đến Đại hội XI, tại Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được nhắc lại, đồng thời nhấn mạnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền: "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo"1.

Hơn nữa, trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức là để tập hợp được đông đảo lực lượng trong xã hội và trở thành nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thu hút, đồng thuận được các lực lượng, các giai cấp và tầng lớp khác nhau vào mục đích chung của công cuộc đổi mới đất nước. Thực chất xây dựng và phát huy liên minh công - nông - trí thức, cũng như đại đoàn kết toàn dân tộc, là hình thành động lực quan trọng nhất của phát triển xã hội, bởi tạo nên được sức mạnh tổng hợp, động viên được tối đa các nguồn lực (sức người, sức của) trong Nhân dân nói chung, đúng như Đảng ta đã xác định: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của xã hội"2.

Từ các quan điểm nêu trên và với mục tiêu tổng quát mà Đảng ta nêu ra tại Đại hội XIII là: Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì tăng cường liên minh công - nông - trí thức phải phù hợp theo những phương hướng sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là phương hướng vừa cấp bách vừa lâu dài của liên minh công - nông - trí thức ở nước ta.

Trong công cuộc đổi mới, quan điểm về công nghiệp hóa đã đổi mới, khác nhiều so với trước đây. Ngay từ Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy khóa VII đã xác định công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và những phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao3.

Như vậy, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa không đơn thuần chỉ là phát triển công nghiệp, công nhân, mà là tác động của công nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến đến mọi mặt của xã hội, trong đấy có sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân. Đó là sự mở đường để công nhân, nông dân, trí thức nói riêng và các giai tầng khác nói chung đến với nhau, liên minh, liên kết nhằm vượt qua trình độ hoạt động lạc hậu để có trình độ hoạt động mới mang tầm thời đại. Cũng chính vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phải ở lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn phổ biến là lao động thủ công ở nước ta.

Hiện nay, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và có dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới.

Do vậy, Đại hội XIII ra yêu cầu và trọng điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô"4.

Với yêu cầu nêu trên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là sự nghiệp của toàn dân, là môi trường để các giai cấp, tầng lớp, trong đó có lực lượng đông đảo, cơ bản là công nhân, nông dân, trí thức... vươn lên cống hiến và trưởng thành. Cũng do đó, việc xây dựng các giai cấp, tầng lớp phải ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phải xây dựng giai cấp công nhân "hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư".

Cần "huy động và phát huy mọi nguồn lực từ nông dân, nông dân cùng với các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân thông minh". Và phải "xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới... Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức"5.

Hai là, đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới. Đây là phương hướng có ý nghĩa sâu sắc và mang tính toàn diện của liên minh công - nông - trí thức ở nước ta.

Đường lối xây dựng nông thôn mới được thể hiện tập trung trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy khóa X "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" (2008) và được cụ thể hóa trong Quyết định số 491/QĐ-TTg "Về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới" và "Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới" ở các giai đoạn khác nhau.

Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào rộng lớn. Từ những tiêu chí và mục tiêu về xây dựng nông thôn mới, nhận thấy, xây dựng nông thôn mới là một sự nghiệp cách mạng lớn lao, bao gồm nhiều lĩnh vực, phải là kết quả cố gắng lớn và lâu dài của cả công nhân, nông dân, trí thức và toàn thể xã hội. Sự nghiệp này mang bản chất nhân văn của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang ý nghĩa tri ân sâu sắc đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam đã bao năm anh dũng, hy sinh sức người, sức của vì sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Hiện nay, trong điều kiện của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa, xây dựng nông thôn mới ở nước ta là xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; môi trường xanh, sạch, đẹp; đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.

Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải gắn với không gian di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; bảo vệ các giá trị của nền văn minh lúa nước, bản sắc văn hóa dân tộc cao đẹp. Như vậy, nông thôn mới phải là sản phẩm chung, tham gia tích cực của các lực lượng nhà khoa học, nghiên cứu... trong cả các ngành khoa học cơ bản và ứng dụng, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn và khoa học công nghệ.

Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phát triển hài hòa, đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ gắn với cơ cấu lại lao động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân và cư dân nông thôn, bảo đảm quốc phòng, an ninh, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, nhất là các địa bàn chiến lược trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng nông thôn mới phải hiệu quả và bền vững. Quản lý tài nguyên đất, nước, bảo vệ môi trường. Chủ động phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu, bảo đảm sản xuất nông nghiệp và an toàn cho Nhân dân...

Như vậy, xây dựng nông thôn mới, phải là sự hợp lực của các nhà kỹ thuật và của bộ phận công nhân công nghiệp ở các ngành công nghiệp nền tảng, như: công nghiệp năng lượng cơ khí chế tạo, hóa chất, phân bón, vật liệu...; cũng như những ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, như: công nghệ thông tin và truyền thống, dược phẩm, chế phẩm sinh học, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo...

Mục tiêu đến năm 2030, ở nước ta, số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 90%, trong đó phấn đấu 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới trên 70%, trong đó phấn đấu 35% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao6. Vì thế, trong xây dựng nông thôn mới đòi hỏi, một mặt, phải nâng cao vai trò chủ thể của người nông dân; mặt khác, phải đẩy mạnh sự liên kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau... của các giai cấp, tầng lớp mà nền tảng là liên minh công - nông - trí thức, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ba là, sáng tạo khoa học và công nghệ "theo đơn đặt hàng" của công nhân, nông dân, của phát triển công nghiệp và nông nghiệp... trong công cuộc đổi mới. Đây là phương hướng nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức trong liên minh công - nông - trí thức nói riêng và hợp tác phát triển với xã hội nói chung.

Thế nhưng hiện nay, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có đời sống và sản xuất của công nhân, nông dân. Một trong những nguyên nhân cơ bản là, hoạt động khoa học và công nghệ chưa nhiều "theo đơn đặt hàng" của xã hội, chưa hướng nhiều vào những đòi hỏi cấp bách, những nhu cầu chính đáng của công nhân, nông dân.

Đặc biệt, hướng vào nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ để phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, đồng thời có được ngày càng nhiều bộ phận "công nhân trí thức"; để phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả bền vững, có được ngày càng đông đảo lực lượng nông dân được đào tạo, lao động với công nghệ cao và xây dựng nông thôn mới rộng khắp.

Ngày nay, để đội ngũ trí thức và hoạt động khoa học và công nghệ đáp ứng nhiều hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới, của đời sống và sản xuất của công nhân, nông dân và toàn xã hội, một mặt, nắm vững những định hướng "Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ" mà Đại hội XIII nêu ra7;

Mặt khác, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện những giải pháp phát triển khoa học và công nghệ được xác định trong Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XI "Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Đó là các giải pháp: Đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ; triển khai định hướng nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu; phát huy và tăng cường tiềm lực, khoa học và công nghệ quốc gia; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ...8.

Bốn là, đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở và nâng cao chất lượng thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là phương hướng tạo động lực to lớn cho liên minh công - nông - trí thức.

Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Quyền làm chủ của Nhân dân được thực hiện bằng hai hình thức: đại diện và trực tiếp.

Về hình thức đại diện, Nhân dân làm chủ chủ yếu thông qua hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở trực tiếp quan hệ với Nhân dân, có vai trò quan trọng tổ chức Nhân dân, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có đường lối, chính sách liên minh giai cấp, hợp tác các tầng lớp và đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung. Hệ thống chính trị ở cơ sở càng phản ánh và đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của dân, thì càng phát huy quyền làm chủ của dân, huy động được mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức tốt cuộc sống của cộng đồng dân cư, trong đó có công nhân, nông dân, trí thức.

Đảng và Nhà nước đã có sáng kiến quan trọng là đưa ra quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (1998). Ngay sau đó (cùng năm 1998), Chính phủ nhanh chóng ra Nghị định số 29 quy định về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Nghị định số 7 quy định về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở các cơ quan hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước... Đến năm 2020, khẳng định tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở cơ sở và để thống nhất việc thực hiện ở các loại hình cơ sở, Nhà nước đã ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Tinh thần quan trọng và cơ bản nhất về dân chủ trong các điều khoản của Luật này là các quy định để: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. "Dân", đông đảo trong loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn, là: nông dân; trong cơ quan hành chính sự nghiệp là: trí thức; trong doanh nghiệp là: công nhân. Quy chế dân chủ ở cơ sở thể hiện sự tôn trọng đối với người dân mà đông đảo là công nhân, nông dân, trí thức.

Công nhân, nông dân, trí thức được trực tiếp quyết định, lựa chọn... các hoạt động của mình, trong đó có việc liên kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các lực lượng. Các loại hình liên minh công - nông - trí thức, với Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, sẽ được phát huy từ nội lực, bằng sức mạnh của quyền làm chủ, tự quyết định, tự vươn lên của công nhân, nông dân, trí thức nói riêng và của công dân nói chung.

Hiện nay, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng và hệ thống chính trị nói chung là tiếp tục thực hiện Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy khóa XI của Đảng về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở" (2013), đồng thời bổ sung thực hiện những nội dung mới mà Đại hội XIII trong các mục XII (Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân); mục XIII (Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam); mục XIV (Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng).

Hệ thống chính trị, trước hết là ở cấp cơ sở, tập trung tiếp tục quán triệt và nâng cao chất lượng thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Qua đó, góp phần quan trọng, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để Nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.

Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân.

Năm là, lựa chọn, hoàn thiện và nhân rộng các mô hình xúc tiến liên minh công - nông - trí thức. Đây là phương hướng thường xuyên và thể hiện sự sinh động của liên minh công - nông - trí thức ở nước ta.

Một trong những quan điểm, nguyên tắc tăng cường liên minh công - nông - trí thức, là thông qua các phong trào thực tiễn. Những năm tháng thực tiễn của công cuộc đổi mới đã xuất hiện những mô hình liên minh công - nông - trí thức, mà điển hình là trong lĩnh vực kinh tế.

Mô hình liên minh công - nông - trí thức ở Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn đã có sớm. Bắt đầu bằng quan niệm rất lý luận và thực tiễn rằng: "Người trồng mía là công nhân ngoài hàng rào nhà máy" - Người sản xuất mía đường (Công ty - công nhân, trí thức...) và người trồng mía (nông dân) không thể thiếu nhau, đều là "chúng ta" ("công nhân"), nếu không "bắt tay" được với nhau... thì Công ty sẽ phá sản, nông dân vẫn nghèo đói... Từ đó, Công ty tìm mọi cách để giúp nông dân phát triển mía nguyên liệu, nông dân hăng hái lao động để có đủ mía có chất lượng cung cấp cho Công ty. Khi Công ty mở rộng và cổ phần hóa, thì cổ đông không chỉ là công nhân, trí thức trong Công ty, mà cả nông dân trồng mía. Nông dân trồng mía không chỉ là "công nhân ngoài hàng rào nhà máy" mà còn cùng với công nhân, trí thức làm chủ nhà máy (liên minh cả về mặt sở hữu)...

Mô hình "Liên kết 4 nhà": Với mục đích giải quyết "đầu ra" cho nông sản ở Đồng bằng sông Cửu Long, Chính phủ ra Quyết định số 80/QĐ-TTg khuyến khích các doanh nghiệp tiêu thụ nông sản hàng hóa cho nông dân thông qua các hợp đồng kinh tế. Nhiều doanh nghiệp đã đến với nông dân, nhưng qua thực tế, để tiêu thụ được sản phẩm đúng yêu cầu (thời gian, chủng loại, chất lượng... nông sản), doanh nghiệp không chỉ liên kết với nông dân về tiêu thụ sản phẩm, mà cả về sản xuất, phải giúp nông dân cả về vốn, kỹ thuật, khuyến nông... Từ đó sự "Liên kết 4 nhà": nhà Nông, nhà Doanh nghiệp, nhà Khoa học, Nhà nước...

Mô hình liên minh công - nông - trí thức trong "Phong trào xây dựng Cánh đồng thu hoạch 50 triệu đồng/ha/năm và Hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng/năm". Phong trào hình thành từ tiếng gọi của sản xuất lớn nông nghiệp, để người nông dân không bị phá sản. Để có "những con số 50" (những con số này là trung bình, trong thực tế có thể là 150, 250, 350...), nông dân phải dám dồn điền - đổi thửa, bắt tay được với các doanh nghiệp, cơ quan khoa học để có được công nghệ, chất xám... áp dụng vào sản xuất.

Lựa chọn, hoàn thiện và nhân rộng các mô hình liên minh công - nông - trí thức hiện nay cần hướng tới những mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2030, 2045 (một cách tương ứng với nội dung cụ thể của liên minh) mà Đại hội XIII nêu ra. Liên minh công - nông - trí thức mang tính toàn diện, do đó việc tiếp tục xây dựng các điển hình, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả ở các phương diện khác (văn hóa, xã hội...).

Liên minh công - nông - trí thức cũng như đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, hướng tới mục đích chung, như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định, là để: "Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi"9. Đấy cũng chính là mục tiêu quan trọng để "phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" như Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Chú thích:

1.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 85.

2.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 86.

3.   Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, lưu hành nội bộ, Hà Nội, 1994, tr. 65.

4.     Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập I, tr. 234.

5.   Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập I, tr. 166 -167.

6.   Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mục III.2.

7.  Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập I, tr. 140 -141.

8.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2012): Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Chính phủ, tr. 82-97.

9.  Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 80.

PHAN THANH KHÔI - Phó Giáo sư, Tiến sĩ,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh