(Mặt trận) -Ngày 22/11/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1679/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2030. Chiến lược nhằm tập trung mọi nỗ lực chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) sang thực hiện và đạt được các mục tiêu toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, dịch vụ chăm sóc SKSS-KHHGĐ đến người dân.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược là: “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”. Để cụ thể hóa mục tiêu trọng tâm đặt ra, chiến lược cũng đã ban hành 8 mục tiêu cụ thể đến năm 2030. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi. Mục tiêu tiếp theo là đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý:
Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%, tỉ lệ người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%, tỉ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%. Chiến lược cũng đề ra mục tiêu thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi: Ít nhất 50% số xã, phường đạt tiêu chí môi trường thân thiện với người cao tuổi; khoảng 70% người cao tuổi trực tiếp sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập. 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, khám, chữa bệnh, chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung…
Để đạt được các mục tiêu đến năm 2030, chiến lược đề ra 8 nhiệm vụ và giải pháp bao gồm: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp. Đổi mới truyền thông, vận động về dân số. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số. Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số. Các giải pháp tiếp theo là: Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hệ thống thông tin, số liệu dân số; bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số; kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế.
Cùng với cả nước, công tác dân số - KHHGĐ tỉnh Quảng Trị thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng và có chuyển biến tích cực. Nhận thức và hành động của toàn xã hội về dân số - KHHGĐ đã được nâng lên rõ rệt. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe người dân nói chung và chăm sóc SKSS/KHHGĐ nói riêng đã tiếp cận gần hơn và có chất lượng đến đông đảo người dân, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Các hoạt động nâng cao chất lượng dân số bước đầu đã có những bước chuyển biến và lan tỏa trong cộng đồng. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, bên cạnh những thuận lợi công tác dân số của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn và vấn đề mới nảy sinh. Tổng tỉ suất sinh đang ở mức 2,45 con, chưa đạt mức sinh thay thế và có sự khác biệt giữa các địa phương trong tỉnh; cơ cấu dân số có nhiều thay đổi; chất lượng dân số vẫn còn thấp, tuổi thọ bình quân ở mức thấp (68,3 tuổi) so với bình quân chung của cả nước (73,6 tuổi); tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh; quan hệ tình dục và có thai ở tuổi vị thành niên, tảo hôn vẫn còn tồn tại... Do vậy, để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ của chiến lược dân số đến năm 2030 đặt ra là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi công tác dân số của Quảng Trị thời gian tới cần được các cấp, các ngành, đoàn thể chính trị - xã hội quan tâm, đảm bảo các nguồn lực cần thiết nhằm triển khai đồng bộ các giải pháp, nhiệm vụ của chiến lược. Trong đó, tiếp tục ổn định tổ chức bộ máy làm công tác dân số ở các cấp, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của công tác dân số trong tình hình mới.
Nâng cao chất lượng hiệu quả các hoạt động dân số và phát triển thông qua việc đổi mới và đa dạng công tác truyền thông, vận động về dân số theo định hướng dân số và phát triển. Đẩy mạnh và tăng cường các hoạt động truyền thông về bình đẳng giới, nâng cao vai trò, vị thế của trẻ em gái, phụ nữ trong gia đình và xã hội. Truyền thông giáo dục chuyển đổi nhận thức, tạo dư luận xã hội phê phán các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, vận động thanh niên tự nguyện khám sức khoẻ trước khi kết hôn, không tảo hôn, không kết hôn cận huyết thống. Thực hiện tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh; phát triển mạng lưới chăm sóc người cao tuổi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về số lượng và chất lượng, nhân rộng mô hình tư vấn, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi dựa vào cộng đồng. Tiếp tục phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số; đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ KHHGĐ theo hướng mở rộng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của từng nhóm đối tượng...
Chi cục trưởng Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh Trương Hữu Thiện cho biết: Để triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược dân số đến năm 2030 của Chính phủ, ngành dân số tỉnh sẽ sớm tham mưu lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương ban hành chính sách và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung mục tiêu của chiến lược dân số đề ra. Trước mắt, tham mưu ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược dân số đến năm 2030 tại địa phương, cùng với việc tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình hành động số 110-CTHĐ/TU, ngày 27/4/2018 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới; Nghị quyết 11/2017/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về chính sách dân số - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, tăng cường huy động các nguồn lực xã hội hóa cho hoạt động công tác dân số, đưa công tác dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp ủy, chính quyền, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược và các chính sách dân số và phát triển của tỉnh.
Kăn Sương - Văn Hưng