(Mặt trận) - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng ta lãnh đạo, nhân dân ta đồng sức đồng lòng, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, làm nên một sự kiện long trời, lở đất, thay đổi căn bản số phận của cả dân tộc và mỗi người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(1).
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với học sinh Trường Nghệ thuật Sân khấu Trung ương ở khu văn công Mai Dịch, Hà Nội (ngày 25-11-1961)_Nguồn: hochiminh.vn |
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo bước ngoặt sâu sắc, mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao; xây dựng một chế độ dân chủ cộng hòa ở Việt Nam; thể hiện đầy đủ, sâu sắc và sinh động bản chất xã hội vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Thắng lợi vẻ vang đó là động lực, là mục tiêu cao cả, là niềm cảm hứng to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta viết tiếp trang sử mới của một thời đại mới vì niềm tự hào, tự tôn dân tộc, vì phẩm giá con người. Nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu thơ hào sảng, lay động: “Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời” (Huế tháng Tám); nhà thơ Nguyễn Đình Thi reo vui: “Mùa thu nay khác rồi/ Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi/ Gió thổi rừng tre phấp phới/ Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha” (Đất nước). Trong âm nhạc, nhà thơ Bùi Công Kỳ, với ca khúc “Ba Đình nắng”, phổ thơ Vũ Hoàng Địch, cất lên những giai điệu tự hào, kiêu hãnh: “Gió vút lên ngọn cờ trên kỳ đài phơi phới/ Gió vút lên đây bao nguồn sống mới dạt dào/ Tôi về đây lắng nghe bao tiếng gọi/ Của mùa thu cách mạng, mùa vàng sao”…
Ngay từ những ngày đầu và nhiều năm tháng sau đó, Cách mạng Tháng Tám và nguồn sáng tin yêu từ lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trở thành niềm kiêu hãnh, sức kết nối và lan tỏa của triệu triệu con tim, thành niềm cảm hứng lớn lao, trong trẻo, dào dạt của cả dân tộc đang tự tin vươn về phía trước. Với tầm nhìn thời đại, tầm vóc văn hóa, bản lĩnh chính trị, cùng với việc đề cao tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lúc đó rất yêu quý, tôn trọng nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ. Cùng với đó, rất nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ tỏ rõ sự yêu kính, ngưỡng mộ và biết ơn cách mạng, biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ, nhất tâm đi theo con đường sáng mà Cách mạng tháng Tám đã khai mở.
Để xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến kiến quốc nhiều hy sinh, gian khổ ở phía trước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực thi nhiều biện pháp nhằm phát hiện, tập hợp, sử dụng, trọng dụng nhân tài; giúp đỡ thế hệ trí thức mới tiến bộ, đào tạo họ thành những những trí thức “chính tâm và thân dân”(2). Trong bộ máy của Chính phủ lâm thời lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông Vĩnh Thuỵ (vua Bảo Đại của chế độ cũ) làm cố vấn Chính phủ, khá nhiều bộ trưởng, thứ trưởng là nhân sĩ, trí thức đã tham gia chính quyền. Cụ Hồ xác định, cùng với chống “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc ngoại xâm, thì phải kiên quyết, nhanh chóng củng cố và tăng cường bộ máy chính quyền, thực thi quyền dân chủ của nhân dân. Vì vậy, Chính phủ lâm thời đã chu đáo, khẩn trương tổ chức soạn thảo Hiến pháp cùng các công việc cho Tổng tuyển cử. Bản dự thảo Hiến pháp được Hội đồng Chính phủ thảo luận, sửa đổi, bổ sung, công bố trên báo chí và gửi văn bản đến tận các làng, xã, thôn, bản, xin ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời tự cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp lâm thời, tiếp tục mở rộng thành phần là những người có uy tín, nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Tố, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Đồng, Vũ Đình Hòe…
Trước ngày diễn ra cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu. Người viết: “Ngày mai mồng 6 tháng Giêng năm 1946. Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình… Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã: Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ,/ Kiên quyết chống bọn thực dân,/ Kiên quyết tranh quyền độc lập”(3). Qua những lần bổ sung và thông qua Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội, Quốc hội có thêm sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Nguyễn Văn Tố, cụ Bùi Bằng Đoàn… Trong bài viết: “Nhân tài và Kiến quốc”, đăng Báo Cứu quốc, số ra ngày 14-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”(4). Người nhấn mạnh: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức”(5).
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ mới, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ là người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài đã tự nguyện rời bỏ cuộc sống nơi phồn hoa, trở về Tổ quốc tham gia kháng chiến, kiến quốc còn nhiều gian khổ, thiếu thốn như các ông: Hoàng Minh Giám, Vũ Ðình Tụng, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa), Trần Hữu Tước, Lương Ðịnh Của, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, Ðặng Văn Ngữ, Trịnh Ðình Thảo, Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon Tum…
|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN |
Nhà khoa học trẻ Phạm Quang Lễ du học ở Pháp từ năm 1935, tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân tại 5 trường đại học danh tiếng của Pháp, từng làm việc tại Trường Quốc gia Hàng không và Vũ trụ Pháp, sau đó sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện Nghiên cứu vũ khí của Đức. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kết thúc chuyến thăm nước Pháp vào ngày 18-9-1946, Phạm Quang Lễ cùng với ba trí thức trẻ khác là Võ Quý Huân, Trần Hữu Tước, Vũ Đình Quỳnh theo Người về nước. Trong điều kiện rất khó khăn, thiếu thốn ở chiến khu Việt Bắc, Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa, tên mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt) đã triển khai nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều vũ khí đang rất cần cho quân đội, phù hợp với thực tế chiến trường và cách đánh của ta. Điển hình là súng và đạn Bazôka để đánh xe tăng, xe bọc thép và lô cốt địch; súng không giật (SKZ) cỡ 60mm gây cho kẻ địch nhiều thất bại và cả nỗi kinh hoàng.
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đang sống và làm việc tại Nhật Bản đã nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, trở về nước với tài sản quý nhất là những tri thức khoa học để chế tạo thuốc kháng sinh đang rất cần cho bộ đội và nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp và sau này là đế quốc Mỹ. Năm 1955, ông sáng lập và làm Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng và côn trùng Việt Nam, tập trung nghiên cứu phòng, chống và điều trị căn bệnh sốt rét tại Việt Nam. Năm 1967, ông hy sinh ở chiến trường miền Nam khi đang tập trung nghiên cứu việc phòng, chống căn bệnh sốt rét.
Nhà nông học Lương Định Của sinh ra ở Sóc Trăng, lên Sài Gòn học xong tú tài. Năm 1937, ông sang Hồng Kông (Trung Quốc) học đại học y khoa, sau đó sang Thượng Hải (Trung Quốc) học đại học kinh tế. Đến năm 1940, trường này đóng cửa do chiến tranh, Lương Định Của sang Nhật Bản, thi vào Đại học quốc lập Kyushu, khoa Sinh vật thực nghiệm. Năm 1946, ông lên Kyoto tiếp tục theo học ngành nông nghiệp, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ nông học chuyên ngành di truyền chọn giống. Ông còn được nhận bằng khen của Viện Nghiên cứu sinh học Kihata cho công trình: “Sự sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”. Những nghiên cứu và sáng tạo khoa học của ông được giới chuyên môn quốc tế đánh giá rất cao, coi ông là một trong những nhà nông học hàng đầu của thế giới lúc đó. Đang ở đỉnh cao vinh quang, Lương Định Của quyết định đưa gia đình về nước. Ông làm việc ở Viện Khảo cứu Bộ Canh nông (Sài Gòn) mấy năm, đến năm 1954, ông cùng gia đình tập kết ra Bắc, làm việc tại Viện Khảo cứu Nông lâm, Trường Đại học Nông nghiệp, Viện Cây lương thực và thực phẩm; còn vợ ông, bà Nubuko Nakamura làm phát thanh viên tiếng Nhật Bản tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Lương Định Của đã lai tạo thành công nhiều giống lúa, giống cây, giống rau cho năng suất cao, chất lượng tốt; đào tạo nhiều cán bộ khoa học hàng đầu cho ngành nông nghiệp nước nhà.
Nếu coi bản chất của cuộc cách mạng chân chính là văn hóa, thì việc thực hành văn hóa, nâng tầm văn hóa của cả dân tộc cũng là một cuộc cách mạng to lớn và sâu sắc. Đường lối “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa” của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện đầy đủ trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ra ngày 25-11-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng; được sáng tỏ, nhấn mạnh trong bức thư “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16-11-1946. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (tháng 11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Người chỉ rõ, Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ. Người nhấn mạnh: Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Đường lối của ta là lấy tự do, độc lập làm gốc. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do… Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ(6).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa mới không chỉ cần đội ngũ các nhà khoa học, kỹ thuật, mà còn cần cả đội ngũ các văn nghệ sĩ. Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa (năm 1951) ở chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người đề cao vai trò xung kích của văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Văn hóa cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự... phải tạo thành những mặt trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(7).
Cũng như giới nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học, đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ thế hệ Cách mạng Tháng Tám cũng ngập tràn niềm vui và hạnh phúc trước sự đổi vận, đổi đời của dân tộc, của nhân dân mình. “Nước cũ bốn nghìn năm/ Theo cờ mới, trẻ như hai mươi tuổi” (Ngọn quốc kỳ - Xuân Diệu), “Có mối tình nào hơn thế nữa?/ Ăn sâu lòng đất thấm lòng người/ Đượm lều tranh, thơm dậy ngàn khơi/ Khi vui non nước cùng cười/ Khi căm non nước với người đứng lên!” (Tình sông núi - Trần Mai Ninh)... Từ đây, đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc nhiều loại hình văn học, nghệ thuật cùng dân tộc đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Họ đồng cam cộng khổ, gắn bó bền chặt với đời sống công, nông, binh; khám phá, ngợi ca và góp phần nhân lên niềm tin, sức mạnh, ý chí quyết chiến và quyết thắng của cả dân tộc. Về văn học là các nhà văn, nhà thơ: Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Hoài Thanh, Thôi Hữu, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nông Quốc Chấn, Hồ Phương, Quang Dũng, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Văn Bổng, Kim Lân, Trần Hữu Thung, Tế Hanh, Hữu Loan, Bàn Tài Đoàn, Tú Mỡ… Về sân khấu, có các nhà biên kịch, đạo diễn, như: Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Lưu Quang Thuận, Vũ Lăng ... Về âm nhạc, có các nhạc sĩ: Văn Cao, Đinh Nhu, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Xuân Oanh, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Đình Phúc, Lương Ngọc Trác, Hoàng Việt, Lê Yên, Phan Huỳnh Điểu… Về mỹ thuật, có các họa sĩ: Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Lưu Hậu, Diệp Minh Châu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Lê Lam, Nguyễn Thị Kim, Lương Xuân Nhị… Về điện ảnh, nhiếp ảnh, trong hoàn cảnh rất thiếu thốn về máy móc, phương tiện, vật liệu, các nghệ sỹ như: Nguyễn Bá Khoản, Võ An Ninh, Mai Lộc, Phan Nghiêm, Vũ Năng An, Nguyễn Hồng Nghi, Nguyễn Thế Đoàn, Khương Mễ, Pham Văn Khoa… đã chụp và quay được những bức ảnh, những đoạn phim tài liệu rất quý về Ngày Độc lập 2-9-1945, về nạn đói năm Ất Dậu 1945, sự kiện lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp trở về (năm 1946), Pháp tấn công phố Hàng Than và trận đánh tại Ô Cầu Dền (năm 1946), trận đánh đồn Mộc Hóa của Tiểu đoàn 307 (năm 1948), Chiến dịch Biên giới (năm 1950)… Trong số các nhà văn, nghệ sĩ thời kháng chiến chống Pháp, có những người đã hy sinh anh dũng vì độc lập, tự do của dân tộc, như: Nam Cao, Trần Đăng, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu, Tô Ngọc Vân…
Đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng, nhiều thế hệ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiếp tục trở thành người chiến sĩ trong các cuộc trường chinh đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đưa nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với những đóng góp to lớn đó, nhiều tổ chức làm công tác văn hóa, văn nghệ, khoa học, kỹ thuật; nhiều trí thức, văn nghệ sĩ đã được Đảng, Nhà nước ta trao tặng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Tiếp tục truyền thống vẻ vang, thấm nhuần tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến nay, đội ngũ những tri thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ đã có những sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục tăng, năm 2019 xếp thứ 42 trên 129 quốc gia và đứng thứ 3 ở Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các nhà khoa học đang đi đầu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh… Gần hai năm qua, trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch COVID-19, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu, phát triển bộ kít xét nghiệm, phần mềm ứng dụng khai báo y tế, truy vết người nghi nhiễm, khám, chữa bệnh từ xa, điều chế vắc-xin và thuốc điều trị COVID-19; nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, tham gia các hoạt động thiện nguyện… nhằm biểu dương, động viên, nhân lên niềm tin chiến thắng đại dịch COVID-19 của nhân dân ta.
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài, xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng nền văn hóa mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là nguồn sức mạnh nội sinh, là động lực to lớn để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong mọi chiến lược phát triển đất nước; khâu đột phá đầu tiên và rất quan trọng là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó, có tầng lớp trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ, từ đó góp phần nâng tầm trí tuệ, văn hóa của dân tộc, sức mạnh nội sinh của đất nước./.
------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 25
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 378
(3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 166, 114, 504
(6) Xem: Vì tình thế Hội nghị Văn hóa toàn quốc đã bế mạc sau một ngày thảo luận, Báo Cứu quốc, số ra ngày Thứ hai, 25-11-1946 (số 416), tr. 1, 4
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 246
PGS, TS. NGUYỄN THẾ KỶ
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
Theo Tạp chí Cộng sản