Cá thể hóa trách nhiệm của các tổ chức giám định tư pháp

(Mặt trận) - Thảo luận tại Tổ 16 (gồm các Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng, tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Cao Bằng), nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị, cần cá thể hóa trách nhiệm của tổ chức giám định tư pháp chủ trì và các tổ chức giám định tư pháp phối hợp trong trường hợp nội dung cần giám định thuộc phạm vi giám định của nhiều tổ chức.

Văn nghệ sỹ đóng góp ý kiến cho dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Cụ thể hóa các quy định về kê khai tài sản để phòng ngừa tham nhũng từ gốc

Hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp và phòng, chống tham nhũng đáp ứng yêu cầu thực tiễn

ĐBQH Phan Thái Bình (Đà Nẵng) phát biểu tại Tổ. Ảnh: Thanh Hải 

Có cơ chế bảo bảo vệ người giám định theo vụ việc

Thống nhất cao sự cần thiết ban hành Luật Giám định tư pháp (sửa đổi), song ĐBQH Phan Thái Bình (Đà Nẵng) đề nghị, không quy định về quyền được miễn trừ trách nhiệm pháp lý của người giám định tư pháp trong hoạt động giám định tư pháp tại điểm i, khoản 1, Điều 24 của dự thảo Luật.

Đại biểu nêu rõ, các chủ thể khác trong hoạt động tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán hay luật sư, những người làm chứng đều không được miễn trừ trách nhiệm thì vì sao lại có quy định đặc thù cho phép miễn trừ trách nhiệm với giám định viên? Mặt khác, kết quả giám định có vai trò quan trọng trong xác định có tội hay không có tội, xác định khung hình phạt và mức hình phạt. Nếu cán bộ giám định không vô tư, không trong sáng trong thực hiện giám định, dẫn đến hệ lụy làm sai lệch bản án, có thể làm oan, bỏ lọt tội phạm.

Đại biểu Phan Thái Bình cũng đề nghị, việc miễn trừ trách nhiệm pháp lý (đặc biệt là trách nhiệm hình sự) của người giám định tư pháp trong hoạt động giám định tư pháp cần đặt trong tổng thể và cân đối với các chủ thể khác trong hoạt động tố tụng là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.

Toàn cảnh thảo luận tại Tổ 16. Ảnh: Như Ý 
Với trường hợp nội dung cần giám định bao gồm nhiều lĩnh vực chuyên môn, thuộc phạm vi giám định của nhiều tổ chức giám định tư pháp mà không thể tách riêng từng nội dung thực hiện, khoản 6, Điều 26 của dự thảo Luật quy định: “Người trưng cầu giám định tư pháp phải xác định nội dung chính cần giám định để quyết định trưng cầu tổ chức giám định tư pháp chủ trì, tổ chức giám định tư pháp phối hợp trong việc thực hiện giám định. Tổ chức giám định tư pháp chủ trì thực hiện giám định có trách nhiệm làm đầu mối tổ chức triển khai việc giám định chung, thực hiện giám định phần nội dung chuyên môn của mình và ban hành kết luận giám định”.

Tuy nhiên, đại biểu Phan Thái Bình lưu ý, trong từng lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì chắc chắn có những quan điểm khác nhau, nên cần làm rõ khi đưa ra kết luận giám định thì tổ chức giám định tư pháp chủ trì thực hiện sẽ chịu trách nhiệm pháp lý đến đâu? Tổ chức giám định tư pháp chủ trì chịu trách nhiệm với cả kết luận giám định chung hay chỉ về lĩnh vực chuyên môn của mình? Các tổ chức giám định tư pháp phối hợp có phải chịu trách nhiệm trong trường hợp kết luận giám định chưa chính xác, ảnh hưởng đến việc ra bản án của Tòa án không?

Đại biểu Phan Thái Bình cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện dự thảo Luật để có thể cá thể hóa trách nhiệm của tổ chức giám định tư pháp chủ trì và các tổ chức giám định tư pháp phối hợp tại khoản 6, Điều 26 này.

Thời gian qua, việc tổ chức giám định theo vụ việc gặp nhiều vướng mắc, nhất là giám định trong các vụ án kinh tế, đặc biệt là giám định trong các hồ sơ liên quan đến các vụ việc ở các lĩnh vực chuyên sâu như: xây dựng, tài chính, công nghệ thông tin, di vật, cổ vật, bảo vật... khó khăn trong lựa chọn, mời chuyên gia thẩm định, nhiều chuyên gia được mời nhưng họ lo sợ trách nhiệm pháp lý, bị khiếu nại hoặc quy kết sai phạm.

 ĐBQH Âu Thị Mai (Tuyên Quang) phát biểu tại Tổ. Ảnh: Như Ý
Để khắc phục những vướng mắc nêu trên, ĐBQH Âu Thị Mai (Tuyên Quang) đề nghị bổ sung quy định theo hướng: làm rõ chủ thể thực hiện giám định, chủ thể chịu trách nhiệm; đồng thời cần quy định tiêu chuẩn bắt buộc (bằng cấp, thâm niên, kinh nghiệm, uy tín nghề nghiệp); quy định cơ quan công nhận tạm thời hoặc lâu dài đối với người giám định tư pháp theo vụ việc; bổ sung cơ chế đăng ký, cấp mã định danh cho người giám định theo vụ việc.

Đại biểu cũng đề nghị thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về người có thể thực hiện giám định theo vụ việc; cơ chế kiểm tra, đánh giá thẩm định kết luận giám định; cơ chế bảo vệ người giám định; trách nhiệm của cơ quan trưng cầu giám định.

Quy định rõ để thống nhất cách hiểu, tránh tùy tiện áp dụng

 ĐBQH Vương Thị Hương (Tuyên Quang) phát biểu tại Tổ. Ảnh: Như Ý
ĐBQH Vương Thị Hương (Tuyên Quang) nhận thấy, tại khoản 3, Điều 3 dự thảo Luật quy định: “Người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành; người có tài sản bảo đảm là người phải thi hành trong phạm vi nghĩa vụ mà họ bảo đảm”.

Đại biểu Vương Thị Hương lưu ý, tại quy định này đang gộp hai khái niệm có bản chất pháp lý khác nhau – “người phải thi hành án” và “người có tài sản bảo đảm” – vào cùng một khoản giải thích từ ngữ.

Việc gộp này khiến phạm vi áp dụng của khái niệm “người phải thi hành án” bị mở rộng, dễ gây nhầm lẫn giữa người có nghĩa vụ thi hành án trực tiếp (người bị buộc thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định) với người chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm (chủ tài sản được dùng để thực hiện nghĩa vụ thay cho người phải thi hành án).

Quy định trên cũng mâu thuẫn với quy định liên quan của Bộ luật Tố tụng dân sự, gây khó khăn trong việc xác định tư cách đương sự ở cả giai đoạn xét xử và thi hành án.

“Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy, việc xác định chủ thể có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nếu không phân tách rõ, cơ quan thi hành án có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế không đúng đối tượng hoặc vượt quá phạm vi nghĩa vụ bảo đảm”

Để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ giữa Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) với Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời giúp cơ quan thi hành án, đương sự và Tòa án dễ dàng xác định đúng tư cách pháp lý của từng chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc. Đại biểu Vương Thị Hương đề nghị tách nội dung quy định về “người có tài sản bảo đảm” thành một khoản riêng và có giải thích phù hợp tại Điều 3.

ĐBQH Lò Thị Việt Hà (Tuyên Quang) phát biểu tại Tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng. Ảnh: Như Ý 
Về tài sản không được kê biên, đại biểu Vương Thị Hương nhận thấy, quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 79 cơ bản kế thừa nguyên văn quy định hiện hành, không có thay đổi về câu chữ. Cụ thể, điểm c, khoản 2, Điều 79 quy định tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân không được kê biên gồm vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm.

Tuy nhiên, đại biểu lưu ý, trong thực tiễn thi hành án đã phát sinh những hạn chế, điểm chưa rõ ràng. Cụ thể, pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa cụ thể thế nào là “người ốm”, chỉ có quy định “người bệnh” theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Thực tế áp dụng phát sinh cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan thi hành án, có nơi hiểu là người ốm tạm thời hay mắc bệnh thông thường, có nơi lại hiểu là ốm là người phải mắc bệnh mãn tính, dài ngày. "Điều này dẫn đến khó xác định phạm vi tài sản được miễn kê biên, ví dụ: giường bệnh, xe lăn, máy đo huyết áp, máy thở oxy tại nhà, các thiết bị hỗ trợ điều trị…", đại biểu Vương Thị Hương nói.

Ngoài ra, quy định hiện hành chưa có hướng dẫn liệt kê cụ thể hoặc định hướng loại vật dụng nào được coi là “vật dụng chăm sóc người ốm” dễ dẫn đến thiếu thống nhất trong thực tiễn. Một số trường hợp tài sản là thiết bị y tế đắt tiền (máy lọc thận cá nhân, xe lăn điện, giường bệnh chuyên dụng…) chưa rõ có được miễn kê biên hay không?

Đại biểu đề nghị làm rõ phạm vi “người ốm” trong dự thảo Luật. Đồng thời, Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp cần sớm ban hành danh mục hướng dẫn hoặc tiêu chí xác định vật dụng chăm sóc người ốm, người tàn tật (tương tự danh mục thiết bị y tế trong lĩnh vực y tế) để bảo đảm thống nhất trong cách hiểu và tránh tùy tiện khi áp dụng.