“Bộ tứ trụ cột” khơi thông mạch nguồn thể chế để hiện thực hóa khát vọng vươn mình của dân tộc

(Mặt trận) - Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, với khát vọng đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, yêu cầu đổi mới thể chế được đặt ra nhằm tạo bước đột phá để khơi thông các “điểm nghẽn” thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn. Việc Bộ Chính trị ban hành bốn nghị quyết quan trọng trong giai đoạn 2024 - 2025 đã hợp thành “Bộ tứ trụ cột” thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị phản biện xã hội đối với dự án Luật tiết kiệm, chống lãng phí

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì Diễn đàn về hoạt động giám sát của Quốc hội

Khẩn trương rà soát tổ chức bộ máy, biên chế công chức, viên chức sau sắp xếp

 Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đại biểu tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong xây dựng và thực thi pháp luật" và "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân", ngày 18-5-2025_Ảnh: Tư liệu

Tư duy chiến lược và những đột phát từ “Bộ tứ trụ cột”

Với tầm nhìn chiến lược và tư duy cải cách mạnh mẽ, thời gian qua, Bộ Chính trị đã ban hành bốn nghị quyết có ý nghĩa nền tảng, bao gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, “Về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” (Nghị quyết số 57); Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới” (Nghị quyết số 59); Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” (Nghị quyết số 66) và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, “Về phát triển kinh tế tư nhân” (Nghị quyết số 68). Bốn nghị quyết này được xác định là “Bộ tứ trụ cột” của thể chế phát triển quốc gia - một chỉnh thể tư duy và hành động mới, vừa kế thừa bài học gần 40 năm đổi mới, vừa mở đường cho khát vọng vươn mình mạnh mẽ của dân tộc trong kỷ nguyên mới.

Bốn nghị quyết chuyên đề được Bộ Chính trị ban hành không chỉ thể hiện sự nhạy bén trong nắm bắt xu thế vận động của thời đại, mà còn thể hiện rõ tư duy phát triển chiến lược, toàn diện, có chiều sâu và có tầm nhìn dài hạn của Đảng ta trong giai đoạn bản lề chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Bốn nghị quyết được định vị như những trụ đỡ thống nhất trong một chỉnh thể thể chế phát triển hiện đại, có tính tương hỗ, liên kết hữu cơ và cộng hưởng sức mạnh, góp phần định hình “mạch nguồn thể chế” cho kỷ nguyên mới.

Thứ nhất, Nghị quyết số 57 được ban hành trong bối cảnh thế giới chuyển động nhanh chóng dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với các xu hướng công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tự động hóa và năng lượng xanh đang làm thay đổi căn bản nền kinh tế toàn cầu. Đối với Việt Nam, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, lấy đổi mới sáng tạo làm động lực then chốt, khoa học và công nghệ làm nền tảng bền vững. Nghị quyết số 57 không chỉ là định hướng phát triển một lĩnh vực riêng lẻ mà thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc tái cấu trúc toàn diện thể chế quốc gia theo hướng số hóa, hiện đại hóa, sáng tạo hóa. Mục tiêu đến năm 2030, “đổi mới sáng tạo sẽ đóng vai trò then chốt trong phát triển văn hóa, xã hội, con người Việt Nam, đưa Việt Nam vào nhóm 40 quốc gia dẫn đầu thế giới về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII)”(1); đồng thời, mục tiêu đến năm 2045, “khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số”(2).

Trọng tâm của nghị quyết là thúc đẩy chuyển đổi mạnh mẽ tư duy phát triển, từ tiếp thu sang làm chủ, từ quản lý hành chính khoa học sang kiến tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Cùng với đó là đột phá thể chế, xây dựng khung pháp lý linh hoạt, như mô hình sandbox, nâng cao tỷ trọng đầu tư công cho nghiên cứu và phát triển (R&D), cải cách cơ chế tài chính, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp sáng tạo. Nghị quyết số 57 đặt ra yêu cầu đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia và vùng, hình thành các doanh nghiệp công nghệ có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Đặc biệt, nghị quyết nhấn mạnh vai trò trung tâm của doanh nghiệp và người dân trong hệ sinh thái sáng tạo, bảo đảm sự kết nối chặt chẽ giữa Nhà nước với thị trường. Với tư duy đổi mới mạnh mẽ, cách tiếp cận tổng thể và mục tiêu cụ thể, Nghị quyết số 57 đóng vai trò động lực dẫn dắt các đột phá chiến lược khác, tạo tiền đề vững chắc để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên chuyển đổi số và cạnh tranh toàn cầu.

Thứ hai, Nghị quyết số 59 được Bộ Chính trị ban hành trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến sự tái định hình sâu sắc các cấu trúc địa chính trị, địa kinh tế, thương mại toàn cầu và trật tự chiến lược quốc tế. Cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân túy gia tăng, trong khi các thách thức xuyên quốc gia, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh phi truyền thống tiếp tục đặt ra yêu cầu cấp thiết phải ứng phó hiệu quả đối với tất cả các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Nghị quyết số 59 xác lập định hướng chiến lược nhằm chủ động, toàn diện và hiệu quả hơn trong hội nhập quốc tế, coi đây là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, đồng thời khẳng định vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm vào mạng lưới các thiết chế toàn cầu, trở thành đối tác chiến lược tin cậy của các quốc gia; đến năm 2045, trở thành quốc gia phát triển có ảnh hưởng trong khu vực, hội nhập sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu và định hình các chuẩn mực quốc tế trong một số lĩnh vực ưu tiên.

Nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 59 là sự chuyển biến toàn diện trong tư duy và hành động hội nhập, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động, tích cực và có chọn lọc”, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời phát huy vai trò của Việt Nam như một chủ thể sẵn sàng đóng góp, tham gia xây dựng, định hướng và đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải trên những lĩnh vực phù hợp với khả năng, lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, nghị quyết đề ra các nhiệm vụ trọng tâm, như: Đổi mới ngoại giao kinh tế, lấy doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, đẩy mạnh ký kết và thực thi hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đặc biệt là các FTA song phương chiến lược với các đối tác trọng yếu; chủ động tham gia các sáng kiến toàn cầu về kinh tế số, kinh tế xanh, năng lượng sạch và chuyển đổi bền vững. Nghị quyết số 59 đồng thời yêu cầu kiện toàn bộ máy hội nhập, nâng cao năng lực phân tích chiến lược, đào tạo nguồn nhân lực ngoại giao chất lượng cao, xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, có năng lực ngoại ngữ, pháp lý, kinh tế và công nghệ. Với định hướng hội nhập toàn diện, đa tầng nấc và mang tính dẫn dắt, Nghị quyết số 59 là một trụ cột không thể thiếu trong chỉnh thể chiến lược thể chế quốc gia, bảo đảm để Việt Nam không chỉ hội nhập sâu, mà còn hội nhập hiệu quả, chủ động thích ứng, vượt lên trong một thế giới đầy biến động.

Thứ ba, Nghị quyết số 66 được ban hành trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, với yêu cầu cấp thiết là xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, minh bạch, khả thi và thống nhất, làm nền tảng cho kiến tạo phát triển và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Sau gần 40 năm đổi mới, hệ thống pháp luật nước ta đã đạt nhiều kết quả quan trọng, nhưng vẫn còn tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp thực tiễn đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Nhận diện rõ những “điểm nghẽn” thể chế, Nghị quyết số 66 xác lập mục tiêu đến năm 2030, hình thành hệ thống pháp luật dân chủ, công khai, minh bạch, có cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, lành mạnh; đến năm 2045, hoàn thiện thể chế pháp luật hiện đại, tiệm cận chuẩn mực quốc tế tiên tiến, bảo đảm thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử xã hội, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

Điểm nhấn quan trọng của Nghị quyết số 66 là chuyển biến căn bản trong tư duy làm luật, từ “quản lý pháp lý thuần túy” sang “kiến tạo thể chế phát triển”. Theo đó, nghị quyết đề ra định hướng cải cách toàn diện quy trình lập pháp, siết chặt kỷ luật lập pháp, lấy thực tiễn làm cơ sở và chất lượng làm thước đo. Đồng thời, đề cao tính khả thi, tính minh bạch và tính trách nhiệm trong thi hành pháp luật. Nghị quyết yêu cầu rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, sửa đổi kịp thời những quy định bất cập, đặc biệt là các quy định liên quan đến quyền tài sản, tự do kinh doanh, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế; sớm nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển kinh tế tư nhân và các đạo luật phù hợp với mô hình chính quyền ba cấp. Ngoài ra, chú trọng hoàn thiện pháp luật số, pháp luật về dữ liệu, an ninh mạng, bảo đảm nền tảng pháp lý cho chuyển đổi số toàn diện. Nghị quyết số 66 không chỉ đóng vai trò về kiến trúc thể chế mà còn là trụ cột kết nối, bảo đảm sự vận hành hiệu quả của các trụ cột khác, qua đó góp phần nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đưa Việt Nam phát triển bền vững trong thời đại số và hội nhập sâu rộng.

Thứ tư, Nghị quyết số 68 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước yêu cầu tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, phát huy nội lực và chủ động thích ứng trước những biến động toàn cầu. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành một thành phần quan trọng, năng động và sáng tạo, đóng góp gần 40% GDP, giải quyết phần lớn việc làm cho người lao động, đồng thời thể hiện vai trò tiên phong trong nhiều lĩnh vực đổi mới, hội nhập và khởi nghiệp. Tuy nhiên, khu vực này vẫn còn đối mặt với nhiều rào cản thể chế, tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ và thị trường. Trên tinh thần nhìn thẳng sự thật, Nghị quyết số 68 xác lập mục tiêu đến năm 2030 đưa kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân; đến năm 2045, trở thành lực lượng có năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, đóng góp trên 60% GDP.

Nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 68 là khơi thông thể chế để kinh tế tư nhân phát triển thực chất, bền vững, có năng lực đổi mới và hội nhập quốc tế. Theo đó, nghị quyết đề xuất các nhóm nhiệm vụ, như: Hoàn thiện hành lang pháp lý về quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh; thúc đẩy cải cách hành chính, số hóa toàn diện dịch vụ công và tạo dựng môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch... Đặc biệt, nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu xây dựng chính sách phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn mang tầm khu vực và toàn cầu; đồng thời, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn, khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. Cùng với đó, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, kết nối doanh nghiệp với viện, trường, trung tâm nghiên cứu. Nghị quyết cũng yêu cầu chú trọng nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp. Với tinh thần “coi doanh nghiệp, người dân là trung tâm, là chủ thể sáng tạo”, Nghị quyết số 68 không chỉ tạo đột phá về kinh tế, mà còn thể hiện bước chuyển lớn trong tư duy phát triển kinh tế tư nhân: từ “thừa nhận” sang “bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy”, cùng với việc kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân chuyển từ “bổ trợ” sang “dẫn dắt phát triển”, là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là đối tác đồng hành cùng Nhà nước kiến tạo phát triển.

Điểm cốt lõi làm nên sức mạnh và tầm vóc của “Bộ tứ trụ cột” chính là tính chỉnh thể thống nhất, thể hiện qua sự liên thông, bổ trợ và cộng hưởng sâu sắc giữa các lĩnh vực mang tính nền tảng và đột phá. Không một nghị quyết nào trong số bốn nghị quyết mang tính tách biệt, mà đều được kiến tạo trên cơ sở tương hỗ: phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57) là nền móng để thúc đẩy mô hình tăng trưởng mới dựa trên tri thức và công nghệ; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật (Nghị quyết số 66) là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh, hiệu quả, minh bạch trong toàn hệ thống; hội nhập quốc tế trong tình hình mới (Nghị quyết số 59) là không gian triển khai các nguồn lực, chiến lược, sáng kiến phát triển ra phạm vi khu vực và toàn cầu; trong khi đó, phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 68) chính là động lực nội sinh, vừa là lực lượng xung kích, vừa là đối tác đồng hành cùng Nhà nước kiến tạo phát triển.

Mỗi nghị quyết đều có phạm vi, đối tượng điều chỉnh và trọng tâm riêng, nhưng chính sự ra đời đồng bộ, có tính thiết kế tổng thể của cả bốn nghị quyết đã tạo nên một bước chuyển căn bản trong tư duy phát triển và hoạch định thể chế của Đảng, hình thành một kiến trúc thể chế liên ngành, tích hợp và đồng vận hành. Đây không chỉ là biểu hiện của bước tiến về trình độ tư duy lý luận trong bối cảnh mới, mà còn là minh chứng sinh động cho sự gắn kết giữa lý luận phát triển và thực tiễn đổi mới dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đứng trước “thời cơ vàng” để bứt phá, “Bộ tứ trụ cột” không chỉ là hệ thống công cụ quản trị quốc gia hiện đại, mà còn là bản thiết kế chiến lược mang tính nền móng, cần được nhận thức đầy đủ, vận dụng linh hoạt và triển khai quyết liệt để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững, phồn vinh và hùng cường vào năm 2045.

Các giải pháp hiện thực hóa “Bộ tứ trụ cột”

Để triển khai hiện thực hóa hiệu quả “Bộ tứ trụ cột” vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi không chỉ sự đồng thuận về nhận thức và quyết tâm chính trị, mà còn cần một hệ sinh thái thể chế đồng bộ, liên thông và được triển khai thực hiện hiệu quả trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò chiến lược của “Bộ tứ trụ cột” đối với sự phát triển đất nước

Để “Bộ tứ trụ cột” thật sự đi vào cuộc sống, trước hết cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, qua đó, xây dựng quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt trong triển khai, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và quán triệt sâu sắc nội dung, mục tiêu, ý nghĩa chiến lược của “Bộ tứ trụ cột” tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Việc tuyên truyền cần được thực hiện đồng bộ, đa dạng về hình thức, phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương, tận dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông đại chúng, phương tiện truyền thông xã hội và nền tảng công nghệ số để lan tỏa rộng rãi tinh thần các nghị quyết. Đồng thời, tổ chức học tập nghị quyết phải gắn với xây dựng chương trình hành động cụ thể, sát với tình hình thực tiễn và điều kiện phát triển của từng ngành, từng địa phương. Các cấp ủy cần đưa nội dung các trụ cột vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhằm tạo chuyển biến thực chất về nhận thức và năng lực thực thi. Song song đó, cần phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu trong việc cụ thể hóa và triển khai các mục tiêu chiến lược, từ đó lan tỏa tinh thần đổi mới, nâng cao ý thức trách nhiệm, tạo sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Hai là, tiến hành đổi mới, tạo động lực trong thực hiện “Bộ tứ trụ cột”

Một trong những yêu cầu then chốt để hiện thực hóa các chủ trương lớn của Đảng chính là quá trình thể chế hóa - chuyển hóa tinh thần, tư tưởng chỉ đạo của nghị quyết thành chương trình hành động cụ thể. Đối với việc thực hiện “Bốn trụ cột”, việc nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách mang tính đột phá không chỉ là yêu cầu cấp bách, mà là động lực chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững. Trước hết, cần đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động minh bạch, hiệu quả, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Việc đơn giản hóa thủ tục, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực là điều kiện tiên quyết để tạo ra một nền hành chính hiện đại, kiến tạo phát triển. Đồng thời, cần ban hành các cơ chế, chính sách vượt trội, đủ “sức hấp dẫn” và thật sự xứng đáng để thu hút những người có tài năng và đạo đức vào làm việc, cống hiến cho sự phát triển bền vững của đất nước. Những chính sách này không chỉ dừng ở mức đãi ngộ về vật chất, mà còn phải tạo dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, minh bạch, có cơ hội phát triển sự nghiệp, được trọng dụng và tôn vinh đúng mức. Quan trọng hơn, việc thu hút và sử dụng người tài cần gắn với cơ chế đánh giá công bằng, khách quan, dựa trên hiệu quả thực tế, sản phẩm cụ thể và chất lượng công việc, tránh hình thức, cảm tính hay cào bằng. Khi người tài, đức cảm nhận được sự trân trọng thực sự và có cơ hội phát huy hết năng lực, trí tuệ trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, được bảo vệ và khuyến khích đổi mới, thì khơi dậy và huy động được nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững và đột phá của quốc gia trong thời kỳ mới.

Bên cạnh đó, có cơ chế, chính sách phát triển khoa học- công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là vấn đề có tính chiến lược trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Theo đó, cần hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo theo hướng cởi mở, minh bạch và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; đồng thời có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu - phát triển (R&D), đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (startup). Chính sách tài chính - tín dụng cần được điều chỉnh linh hoạt, ưu tiên cho các dự án đổi mới sáng tạo có tiềm năng tác động lớn đến ngành, lĩnh vực hoặc cộng đồng. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia đồng bộ, kết nối giữa nhà nước - doanh nghiệp - trường đại học - viện nghiên cứu, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, nhà nước là lực kéo, trường - viện là nơi tạo ra tri thức và công nghệ. Đặc biệt, cần đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng khoa học - công nghệ, khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, nền tảng số mở và dữ liệu lớn để hỗ trợ các hoạt động sáng tạo. Nghiên cứu xây dựng “Bộ tiêu chí” đánh giá đổi mới sáng tạo gắn với kết quả thực tiễn, tác động xã hội và giá trị thương mại hóa, nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng nguồn lực công và lan tỏa tinh thần sáng tạo trong mọi tầng lớp xã hội. Chỉ khi đổi mới sáng tạo trở thành một giá trị văn hóa và động lực phát triển cốt lõi thì đất nước mới có thể bứt phá trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu khốc liệt hiện nay. Ngoài ra, cần tăng cường thực hiện chuyển đổi số, xem là khâu đột phá toàn diện, liên thông giữa cải cách hành chính, phát triển kinh tế tri thức và đổi mới mô hình quản trị quốc gia. Cần xây dựng thể chế số phù hợp, tạo hành lang pháp lý để làm nền tảng, động thực thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, chính phủ; đồng thời bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và quyền riêng tư công dân trong môi trường số. Khi các chính sách đột phá này được thiết kế bài bản, triển khai quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả, thì có thể khơi thông các “điểm nghẽn” trong phát triển, nâng cao năng lực điều hành và sức mạnh nội sinh của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp, sự đồng thuận của toàn hệ thống chính trị và toàn dân trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện “Bốn trụ cột”

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những yếu tố làm nên mọi thắng lợi của dân tộc ta chính là sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Đối với việc triển khai “Bộ tứ trụ cột”, phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo dựng sự đồng thuận xã hội không chỉ là điều kiện bảo đảm, mà còn là phương thức chủ đạo để chuyển hóa tư duy đổi mới của Đảng thành động lực phát triển thực tiễn. Sức mạnh tổng hợp ở đây phải được hiểu là sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong tổ chức triển khai thực hiện “Bốn trụ cột”. Để thực hiện hiệu quả mục tiêu này, cần xây dựng cơ chế điều phối tổng thể, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, trong đó phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành linh hoạt của Nhà nước và vai trò chủ thể của người dân. Trong đó, Đảng giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo, định hướng tư tưởng và chỉ đạo hành động; Nhà nước cụ thể hóa bằng thể chế, chính sách và cơ chế điều hành hiệu quả; các đoàn thể là cầu nối trung gian để lan tỏa chủ trương, phản ánh nguyện vọng, đồng thời giám sát quá trình triển khai. Mỗi bộ phận của hệ thống chính trị đều phải xác lập rõ vai trò, chức năng, trách nhiệm, tránh tình trạng “trên nóng dưới lạnh”, “Trung ương quyết liệt, cơ sở chần chừ”.  Việc tổ chức thực hiện cũng cần bám sát nguyên tắc “trên dưới đồng lòng, dọc ngang phối hợp”, kết hợp chặt chẽ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”, khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm công dân trong thực hiện mục tiêu “Vì một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng”.

Ngoài ra, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện “Bốn trụ cột” của các cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Công tác kiểm tra, giám sát cần được triển khai chủ động, thường xuyên, đồng bộ giữa các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính quyền, gắn chặt với đánh giá bằng kết quả đầu ra cụ thể, minh bạch, tránh hình thức, chiếu lệ. Đồng thời, cần phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân trong việc phản ánh khách quan tình hình triển khai từng trụ cột; từ đó, góp phần điều chỉnh chính sách kịp thời, sát thực tiễn. Đặc biệt, việc kiểm tra, giám sát phải đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, khắc phục tư tưởng chủ quan, cục bộ, và xử lý nghiêm minh các biểu hiện trì trệ, né tránh trách nhiệm. Khi công tác kiểm tra, giám sát thực sự trở thành một khâu trọng yếu, thì “Bốn trụ cột” mới có thể được hiện thực hóa một cách đồng bộ, hiệu quả và tạo chuyển biến rõ nét trong đời sống xã hội, góp phần đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Nguyễn Văn Phương
Trường Sĩ quan Lục quân 2, Bộ Quốc phòng

-------------------

(1)  Bộ Khoa học và Công nghệ: Chương trình hành động lĩnh vực đổi mới sáng tạo năm 2025 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội, ngày 27-5-2025
(2) Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”