Chăm lo, bảo vệ quyền lợi và phát huy nguồn lực cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

(Mặt trận) - Gần 6 triệu người Việt Nam tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ là bộ phận không tách rời của dân tộc, đóng góp nguồn lực quý báu về tri thức, kinh tế, văn hóa và mạng lưới liên kết rộng khắp trên toàn cầu. Trong kỷ nguyên mới, việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi và khơi dậy tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo động lực mạnh mẽ để đồng bào ở xa quê hương tiếp tục gắn bó, đồng hành, đóng góp hiệu quả cho sự nghiệp phát triển, hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế của đất nước.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn hội đàm với Chủ tịch Duma Quốc gia Quốc hội Nga Vyacheslav Volodin

Chủ tịch nước gặp mặt cán bộ, nhân viên, đại diện cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ

Chủ tịch nước Lương Cường: Tôn vinh giá trị của hòa bình, chuyển đổi mạnh mẽ để kiến tạo tương lai bền vững

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường và Phu nhân cùng đoàn kiều bào về thăm quê hương nhân dịp tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025_Ảnh: TTXVN  

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài - bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực quý báu, gắn bó chặt chẽ trong từng chặng đường phát triển của đất nước. Kể từ sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986 và nhất là trong những năm gần đây, với tiềm lực kinh tế, tri thức, kỹ năng cùng mạng lưới liên kết rộng khắp trên toàn cầu, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò đối với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ hữu nghị, hợp tác của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Nhiều tổ chức trí thức người Việt Nam ở nước ngoài được thành lập, cùng các hoạt động tích cực, ý nghĩa tại nước sở tại và trong nước, như Nhóm sáng kiến Việt Nam ở Mỹ, Tổ chức khoa học và chuyên gia toàn cầu (AVSE Global) ở Pháp, mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam, hội trí thức Việt Nam tại nhiều quốc gia. Doanh nhân người Việt Nam ở nước ngoài trở về nước khởi nghiệp, đầu tư, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm, đào tạo nhân lực, thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước. Cộng đồng doanh nhân người Việt Nam ở nước sở tại là một trong những lực lượng nòng cốt đưa hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường các nước trên thế giới, hình thành mạng lưới phân phối thông qua trung tâm thương mại, tổ chức hay hiệp hội doanh nghiệp. Kiều hối tiếp tục là nguồn lực kinh tế quan trọng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế và bổ sung ngoại tệ cho đất nước. Theo thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, giai đoạn 1993 - 2024, lượng kiều hối về Việt Nam đạt 222 tỷ USD, trong đó riêng năm 2024 là 16 tỷ USD.

Về công tác cộng đồng, cá nhân, nhóm và hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài tích cực tham gia nhiều chương trình xã hội tại Việt Nam, như xóa đói, giảm nghèo; hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam; chăm lo trẻ em khuyết tật... Mỗi khi đồng bào trong nước gặp khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, bà con kiều bào Việt Nam ở nước ngoài kịp thời phát động quyên góp tiền, thuốc men, các trang thiết bị y tế gửi về hỗ trợ. Trong giai đoạn đại dịch COVID-19 bùng phát tại Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã ủng hộ 80 tỷ đồng cùng nhiều trang thiết bị y tế, tham gia triển khai công tác ngoại giao vắc-xin, tổ chức các chiến dịch gây quỹ vắcxin cho Việt Nam. Trong cơn bão Yagi năm 2024, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã ủng hộ hơn 60 tỷ đồng (chưa kể hàng hóa) cho đồng bào trong nước bị thiệt hại do bão, lũ. Hoạt động thiết thực, kịp thời đó thể hiện sâu sắc tinh thần gắn bó với quê hương, trách nhiệm xã hội và là nguồn lực quan trọng góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn là cầu nối quảng bá hình ảnh và văn hóa dân tộc; cung cấp thông tin khách quan, chính xác về tình hình trong nước tới xã hội sở tại và cộng đồng quốc tế; góp phần thực hiện hiệu quả cam kết quốc tế của Việt Nam. Số lượng người Việt Nam, người gốc Việt tham gia và đảm nhiệm vị trí quan trọng tại các tổ chức quốc tế có xu hướng tăng lên, tạo tiền đề quan trọng để tăng cường lòng tin, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với nhân dân, chính giới và lãnh đạo các nước, cũng như với tổ chức quốc tế; qua đó, nâng cao vị thế và uy tín quốc gia trên trường quốc tế.

Quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài - cơ sở chính trị - pháp lý cho sự gắn kết và phát triển bền vững

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định nhất quán quan điểm: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam(1). Quan điểm này vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đây là sự kế thừa tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, trước yêu cầu mới của thực tiễn, Nghị quyết số 08NQ/TW, ngày 29-11-1993, của Bộ Chính trị “Về chính sách và công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” được ban hành. Đây là nghị quyết đầu tiên của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức về vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nguồn lực từ kiều bào đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Qua quá trình triển khai Nghị quyết số 08NQ/TW cho thấy nhận thức chung về vị trí, vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài của nhiều cấp, ngành, địa phương trong nước vẫn còn hạn chế. Để khắc phục hạn chế trong triển khai chính sách, ngày 26-3-2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt thể hiện tư duy đổi mới toàn diện, sâu sắc, không chỉ về đối nội, mà còn về đối ngoại, nhất là đối ngoại nhân dân. Việc Đảng xác định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, là nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển đất nước mang ý nghĩa chiến lược, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Sau hơn 10 năm triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đạt nhiều kết quả quan trọng. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục gia tăng về số lượng và địa bàn, lãnh thổ cư trú, đời sống ngày càng ổn định, tiềm lực tri thức và kinh tế được củng cố, vị thế và ảnh hưởng trong xã hội sở tại ngày một nâng cao. Tuy nhiên, trước biến động của tình hình quốc tế, khu vực, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần được tăng cường nhằm hỗ trợ cộng đồng phát triển vững mạnh, đóng góp tích cực cho quê hương, đồng thời nâng cao uy tín quốc gia và góp phần thắt chặt quan hệ hữu nghị, hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ. Ngày 19-5-2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW trong tình hình mới. Chỉ thị số 45-CT/TW vừa kế thừa định hướng của Nghị quyết số 36-NQ/TW, vừa đề ra nhiều nội dung và nhiệm vụ trọng tâm nhằm phát huy kết quả đạt được, tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất hơn.

Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước do Đại hội XIII của Đảng đề ra, trên cơ sở chuyển biến tích cực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sau hơn 16 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW và 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 12-8-2021, Kết luận số 12-KL/TW, của Bộ Chính trị đã được ban hành, trong đó tập trung vào sáu nhóm nhiệm vụ, giải pháp bao gồm: 1- Tiếp tục nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm trong thực hiện hiệu quả chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc; 2- Hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định cuộc sống tại nước sở tại; 3- Phát huy hơn nữa nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài; 4- Hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài trong dạy và học tiếng Việt, đồng thời phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc; 5- Đẩy mạnh công tác thông tin cho người Việt Nam ở nước ngoài; 6- Hoàn thiện cơ chế phối hợp, tổ chức bộ máy thực hiện công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện rõ tình cảm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo cho người Việt Nam ở nước ngoài, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của bà con kiều bào, qua đó động viên, khích lệ cộng đồng kiều bào nỗ lực vươn lên, gắn bó và đóng góp nhiều hơn cho đất nước. Để triển khai thực hiện văn bản, chỉ thị hiệu quả, ngày 31-122021, Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW và Kết luận số 12-KL/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2021 - 2026, đã được ban hành, với nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.

Quan điểm, chủ trương của Đảng đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, tính nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Việc khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực quan trọng của dân tộc không chỉ là sự ghi nhận về mặt tình cảm, mà còn là quyết sách có ý nghĩa sâu sắc, nhằm huy động và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nguồn động lực mới cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Tăng cường chăm lo, bảo vệ quyền lợi và phát huy hiệu quả nguồn lực của người  Việt Nam ở nước ngoài trong kỷ nguyên mới

Từ nay đến năm 2030, thế giới bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng, định hình trật tự quốc tế đa cực, đa trung tâm, trong đó cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc ngày càng gay gắt trên mọi lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đột phá của khoa học - công nghệ (như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chế tạo số...) đang làm thay đổi căn bản cách thức sản xuất, cơ cấu ngành, nghề và chính sách phát triển nguồn lực. Cùng với đó, các thách thức an ninh phi truyền thống, như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia... gia tăng tính bất định và rủi ro toàn cầu, buộc quốc gia, nhất là nước đang phát triển, có chiến lược phát triển toàn diện, tận dụng tối đa nguồn lực để nâng cao năng lực nội sinh và sức cạnh tranh quốc gia.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn là xu thế chủ đạo, song đang đối mặt với làn sóng chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, bảo hộ thương mại trỗi dậy ở nhiều quốc gia, phần nào tạo thêm rào cản trong việc cư trú, tìm kiếm việc làm và kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập và dòng kiều hối chuyển về Việt Nam. Tuy nhiên, chính thách thức này cũng mở ra hướng đi mới. Không ít bà con kiều bào, nhất là đội ngũ trí thức, doanh nhân và người lao động có trình độ chuyên môn cao, trở về nước, chủ động tìm kiếm cơ hội đầu tư, hợp tác và làm việc trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế tri thức, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao tri thức, công nghệ, quản trị và kết nối đổi mới sáng tạo trong nước và ngoài nước. 

Trong khi nhiều quốc gia phát triển đối mặt với già hóa dân số, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào. Để chuyển “lợi thế nhân khẩu học” thành “lợi ích phát triển”, Việt Nam chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng hội nhập quốc tế, tư duy số và thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là thế hệ trí thức trẻ đang sinh sống và học tập tại các nước phát triển, là nguồn lực quý báu, có thể góp phần bổ sung, nâng tầm chất lượng nguồn nhân lực trong nước thông qua hoạt động hợp tác đào tạo, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và đầu tư, phát triển công nghệ. 

Kinh tế toàn cầu đang cấu trúc lại sâu rộng, với sự nổi lên của kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ và sự mở rộng nhanh chóng của chuỗi giá trị toàn cầu. Với độ mở kinh tế lớn và vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam có điều kiện hội nhập sâu vào các mạng lưới hợp tác quốc tế. Khi đó, mạng lưới bà con kiều bào ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đóng vai trò như một kênh dẫn vốn, chất xám, công nghệ và thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia vào phân khúc giá trị gia tăng cao.

Trong bối cảnh địa - chính trị khu vực và thế giới phức tạp, việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo có ý nghĩa sống còn. Với lợi thế tiếp cận thông tin, truyền thông quốc tế và khả năng tác động dư luận, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cầu nối quan trọng trong đối ngoại nhân dân, ngoại giao công luận và truyền thông chiến lược. Đây là lực lượng góp phần tạo dựng đồng thuận, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, phản bác thông tin sai trái, qua đó lan tỏa hình ảnh một Việt Nam hòa bình, trách nhiệm, tin cậy và có năng lực đóng góp vào các vấn đề chung của khu vực và thế giới.

Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, Việt Nam quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh cải cách toàn diện và đồng bộ, tạo đột phá về thể chế, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và tinh gọn tổ chức bộ máy theo định hướng của các Nghị quyết của Bộ Chính trị - “Bộ tứ trụ cột”(2). Với mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Trong đó, sự đóng góp về tri thức, vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản trị và mạng lưới quan hệ quốc tế của gần 6 triệu người Việt Nam ở nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bổ sung nguồn lực và dư địa mới cho phát triển nhanh, bền vững. 

Việc Việt Nam chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang dựa trên tri thức, đổi mới sáng tạo và công nghệ cao chính là cơ hội để bà con kiều bào, nhất là bộ phận trí thức, doanh nhân, chuyên gia phát huy thế mạnh trong lĩnh vực mũi nhọn. Những cải cách mạnh mẽ về thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, chính sách thu hút nhân tài, cùng chương trình quốc gia về chuyển đổi số, công nghiệp xanh, giáo dục chất lượng cao, đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi giúp mở ra cơ hội hợp tác cụ thể, linh hoạt hơn, phù hợp với năng lực, thế mạnh và nhu cầu đa dạng của bà con kiều bào. 

Thời gian tới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục phát triển cả về quy mô, thành phần và địa bàn, lãnh thổ cư trú, với quá trình chuyển giao thế hệ rõ rệt. Sự chuyển giao thế hệ này không chỉ là sự thay đổi về độ tuổi, mà còn là sự chuyển biến về tư duy, phương thức tổ chức và cách thức hoạt động của cộng đồng. Số lượng người Việt Nam học tập ở nước ngoài tăng, góp phần xây dựng và củng cố lực lượng nòng cốt. Lớp trẻ thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba sinh ra, lớn lên ở nước ngoài ngày càng trưởng thành, thuận lợi trong hội nhập xã hội sở tại. Các hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài được củng cố, phát triển dưới nhiều hình thức góp phần tập hợp, đoàn kết cộng đồng. 

Bên cạnh mặt thuận lợi, trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục biến động sâu sắc với các xu hướng mới, như gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, bảo hộ thương mại và chính sách nhập cư có xu hướng ngày càng khắt khe ở nhiều quốc gia, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức để thích ứng với quy định về thị thực, việc làm, bảo hiểm xã hội...

Đáng chú ý, trong thời đại bùng nổ thông tin, một bộ phận kiều bào chưa có điều kiện tiếp cận đầy đủ với kênh thông tin chính thống, dễ bị tác động bởi luận điệu sai lệch, xuyên tạc, thậm chí bị lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch, phản động, dẫn tới ảnh hưởng đến niềm tin và tình cảm gắn bó với Tổ quốc. Vì vậy, việc chăm lo quyền lợi và phát huy nguồn lực kiều bào vừa là nhu cầu nội tại, vừa thể hiện sự thích ứng của Việt Nam trước biến động của thế giới đương đại. 

Với đặc trưng đa dạng, gồm nhiều thành phần, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sinh sống trong hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, việc đồng hành, định hướng và hỗ trợ thường xuyên, chặt chẽ từ Đảng và Nhà nước giúp củng cố khối đại đoàn kết, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật tại nước sở tại, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bồi đắp tình cảm gắn bó, hướng về quê hương, đất nước. Để tiếp tục chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng và phát huy hiệu quả nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, cần tập trung vào một số định hướng và giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài; rà soát, bổ sung quy định pháp luật theo hướng đồng bộ, khả thi, phù hợp với thực tiễn hội nhập quốc tế và nhu cầu ngày càng đa dạng của cộng đồng. Thể chế hóa cơ chế, chính sách theo mô hình “chăm lo - phát huy - gắn kết”, bảo đảm tính tích hợp, đồng bộ: 1- Chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp; 2- Phát huy nguồn lực; 3- Gắn kết lâu dài và bền vững với quê hương. Hệ thống chính sách cần được phân tầng theo nhóm đối tượng, lĩnh vực, địa bàn để có giải pháp đặc thù, phù hợp và linh hoạt.

Thứ hai, thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ liên ngành, liên vùng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài; lồng ghép chính sách đối với kiều bào vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, ưu tiên địa phương có tiềm năng thu hút đầu tư, chuyển giao tri thức, hợp tác quốc tế.

Thứ ba, xây dựng hệ thống bảo hộ công dân trên nền tảng số hóa, chuyển từ bảo hộ bị động sang bảo hộ chủ động và theo thời gian thực, ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn (big data), AI và nền tảng tích hợp. Theo đó, cần phát triển hệ thống thông tin công dân toàn cầu, cho phép người Việt Nam ở nước ngoài: 1- Đăng ký tình trạng cư trú, cập nhật điểm đến, quốc tịch, thị thực, hành trình quốc tế;  2- Tiếp nhận thông tin cảnh báo khẩn cấp, dịch vụ pháp lý, y tế, lãnh sự; 3- Kết nối trực tiếp với cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại thông qua ứng dụng di động hay cổng thông tin trực tuyến. 

Thứ tư, đồng hành với hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài theo cơ chế phối hợp ba bên giữa Nhà nước, cộng đồng và doanh nghiệp; ưu tiên hỗ trợ các hoạt động, như giữ gìn tiếng Việt, tổ chức hội trại thanh thiếu niên, ngày văn hóa Việt Nam, lễ Tết cộng đồng, truyền thông về Việt Nam, bảo vệ pháp lý và hỗ trợ khẩn cấp. Nghiên cứu tổ chức chương trình tập huấn định kỳ dành cho lãnh đạo hội đoàn và lực lượng nòng cốt trong cộng đồng.

Thứ năm, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là ở khâu thực thi tại cơ sở theo hướng minh bạch, thuận lợi, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Đơn giản hóa thủ tục đầu tư, đăng ký kinh doanh, cấp phép sử dụng đất và tiếp cận tín dụng đối với nhà đầu tư là người Việt Nam ở nước ngoài thông qua tích hợp, số hóa quy trình và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ. 

Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả các cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng trí thức, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài. Có cơ chế huy động đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia trực tiếp các chương trình quốc gia trọng điểm; thúc đẩy ngoại giao trí thức - ngoại giao khoa học thông qua cơ quan đại diện ở nước ngoài; phối hợp tổ chức diễn đàn học thuật, đối thoại chính sách gắn với nhu cầu phát triển của đất nước.

Thứ bảy, phát huy vai trò của người  Việt Nam ở nước ngoài trong lan tỏa giá trị, văn hóa và hình ảnh Việt Nam ra thế giới thông qua việc xây dựng hệ sinh thái truyền thông đối ngoại; phát huy vai trò trí thức, nghệ sĩ, doanh nhân kiều bào tham gia đối ngoại nhân dân; phối hợp cùng cơ quan đại diện và cơ quan trong nước tổ chức Tuần/Ngày Văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, qua đó củng cố đồng thuận, tăng cường hiểu biết và mở rộng mạng lưới bạn bè quốc tế của Việt Nam.

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với thời cơ và thách thức đan xen, việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài không chỉ là yêu cầu mang tính chiến lược, mà còn là nội dung trọng tâm trong công tác đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhất quán và xuyên suốt. Chính vì vậy, các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị cần thực hiện đồng bộ chính sách một cách thiết thực, kịp thời và linh hoạt, theo tinh thần “ở đâu có khó khăn thì hỗ trợ, ở đâu có tiềm năng thì phát huy”, nhằm xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đoàn kết, vững mạnh, vừa hội nhập thành công với xã hội sở tại, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, hướng về cội nguồn, để cùng thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới./.

------

(1) Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004, của Bộ Chính trị, “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”
(2) Nghị quyết 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số  66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế tư nhân”