(Mặt trận) - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi vĩ đại này không chỉ là kết quả của đường lối cách mạng đúng đắn, nghệ thuật lãnh đạo và sự chuẩn bị chu đáo của Đảng, mà còn là minh chứng sinh động cho sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
 |
Quang cảnh tại Quảng trường Ba Đình lịch sử sáng nay. Ảnh: TTXVN |
Trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong Cách mạng Tháng Tám, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành nền tảng vững chắc quy tụ mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc, xu hướng chính trị. Đó là sự gắn kết giữa các tầng lớp Nhân dân thành một khối thống nhất, cùng hướng tới mục tiêu giành độc lập dân tộc, tự do cho đất nước.
Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đứng trước những thời cơ và thách thức mới do tác động của toàn cầu hóa, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Đại đoàn kết không chỉ là truyền thống quý báu mà còn là nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững đất nước.
Bài viết nhằm làm rõ vai trò quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và rút ra những bài học có giá trị thực tiễn nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
1. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần tạo nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám năm 1945
1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về tập hợp các lực lượng cách mạng
Ngay từ khi thành lập vào năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã xác định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, xã hội phân hóa sâu sắc, các phong trào yêu nước thiếu tổ chức và định hướng thống nhất, chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng của Đảng thể hiện sự nhạy bén chính trị và tầm nhìn chiến lược.
Giai đoạn 1930-1935, dù phải hoạt động bí mật và chịu sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù, Đảng vẫn kiên trì đường lối cách mạng vô sản, từng bước xây dựng cơ sở trong quần chúng công – nông – trí thức và phát động các phong trào đấu tranh như Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tuy nhiên, chủ trương tập hợp lực lượng trong giai đoạn này còn hẹp, mang tính giai cấp rõ nét, chủ yếu dựa vào liên minh công-nông.
Từ năm 1936-1939, trước tình hình quốc tế và trong nước thay đổi, Đảng chủ trương mở rộng mặt trận đoàn kết. Thông qua phong trào Dân chủ Đông Dương, Đảng đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp yêu nước không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo, dân tộc, giai cấp, hướng tới mục tiêu chung: chống đế quốc, đòi tự do, dân sinh, dân chủ. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành mặt trận thống nhất dân tộc.
Giai đoạn 1939-1945, đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), Đảng đã xác lập chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng, xác định nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc thì không thể nói đến vấn đề giai cấp”. Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh – hình thức tổ chức rộng lớn, quy tụ mọi tầng lớp nhân dân, bao gồm cả trí thức, phú nông, trung tiểu địa chủ, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo, binh lính người Việt trong quân đội Pháp – Nhật…
Chủ trương, chính sách này thể hiện tư tưởng xuyên suốt của Đảng: lấy lợi ích dân tộc làm điểm quy tụ, lấy tinh thần yêu nước làm sợi dây liên kết, tạo nên một mặt trận toàn dân mạnh mẽ, đủ sức làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1.2. Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh (1930-1936). Đây là hình thức Mặt trận đoàn kết dân tộc đầu tiên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tháng 9-1937, một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng như hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tháng 6-1938, Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương". Như vậy, từ những phong trào Mặt trận đã dần hình thành mang tính chất của một tổ chức chính trị-xã hội. Quá trình ra đời và hoạt động của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939) chính là sự kế tiếp thành quả của Hội Phản đế đồng minh. Hội nghị lần Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (thành lập theo Quyết nghị của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu - khóa I, tháng 11-1939).
Mặt trận Việt Minh đã tập hợp, huy động được sức mạnh to lớn của m giai tầng trong xã hội, vì lợi ích chung của cả dân tộc Việt Nam. Mặt trận Việt Minh “chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp-Nhật giành độc lập” . Mặt trận Việt Minh là nơi tập hợp lực lượng của cả dân tộc Việt Nam, là hình ảnh khối đại đoàn kết các tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc ngày càng thu nhận thêm tổ chức thành viên mới, những trí sĩ yêu nước. Mặt trận Việt Minh là tập hợp của các đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nông dân cứu quốc... Đứng trong hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh có hàng triệu người Việt Nam yêu nước, đồng lòng không sợ hy sinh, gian khổ, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 lịch sử và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Về tổ chức, Mặt trận có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Về hệ thống tổ chức, ở các xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kì có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy; Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ. Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội Công nhân cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc,...) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội cứu tế thất nghiệp, Hội tương tế, Hội hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,...
Chủ trương cụ thể của Việt Minh: liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam Độc lập Đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc.
Sau một thời gian ngắn Mặt trận Việt Minh được thành lập, các Hội Cứu quốc và tổ chức Việt Minh phát triển nhanh chóng ở Cao Bằng-Bắc Cạn-Lạng Sơn và các tỉnh khác ở Việt Bắc. Từ cuối năm 1941, đầu năm 1942 các hội Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Quân nhân Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc…đã được thành lập ở nhiều tỉnh trung du và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng. Các tổ chức phản đế cũ trước đây còn lại đều được đổi tên thành các tổ chức cứu quốc để nhằm tập hợp được tối đa các lực lượng quần chúng nhân dân tham gia vào một mặt trận chung để thực hiện một mục tiêu là đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật ra khỏi đất nước.
Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc ở nhiều địa phương còn tích cực động viên nhân dân, gây cơ sở tổ chức, xây dựng các căn cứ địa (khu an toàn) không chỉ của cơ quan Trung ương Đảng mà còn của cấp tỉnh, huyện, xã. Một số nơi Việt Minh và các đoàn thể tổ chức Nhân dân đã xây dựng khu căn cứ du kích. Ngoài ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng còn Thái Nguyên, Tuyên Quang là những nơi được chọn xây dựng khu căn cứ du kích, hình thành một số khu căn cứ cách mạng trung tâm đầu tiên là Cao Bằng, Bắc Sơn, Võ Nhai. Cùng thời gian này, Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc còn tổ chức, động viên nhân dân kiên cường chiến đấu để bảo vệ khu căn cứ.
Phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân của Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc nhằm đẩy mạnh cao trào kháng Nhật đã diễn ra khẩn trương với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo của quần chúng và tổ chức tuyên truyền cổ động quyết liệt hơn trước. Ở khắp các địa phương, ra đời nhiều đội tuyên truyền xung phong của Việt Minh, tổ chức diễn thuyết, rải truyền đơn và nhiều cuộc mít tinh của quần chúng nhân dịp hội hè, phiên chợ, trong các trường học, rạp hát có đông người. Những hoạt động tuyên truyền, cổ động mạnh mẽ đã làm quần chúng Nhân dân thêm hiểu biết về Việt Minh càng lan rộng. Chỉ trong vòng mấy tháng, các hội cứu quốc đã kết nạp hàng vạn hội viên mới và được bồi dưỡng, rèn luyện ngay trong phong trào, trưởng thành nhanh chóng và trở thành một lực lượng cực kỳ quan trọng trong Cách mạng tháng Tám.
Có thể nói, dưới ngọn cờ tập hợp và hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh, Cách mạng tháng Tám đã thành công một cách trọn vẹn mà không đổ nhiều máu. Đạt được thành quả tốt đẹp như vậy, trước hết là nhờ Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được một lực lượng quần chúng mạnh mẽ, uy tín ngày một lớn, có nghệ thuật nắm bắt thời cơ để đưa ra các sách lược đúng đắn. Từ đó, tạo nên sự phối hợp thống nhất hành động của toàn dân tộc mang lại hiệu quả, sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
2. Bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự vận dụng cho giai đoạn hiện nay
2.1. Bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đỉnh cao của phong trào cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thể hiện sâu sắc sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là chủ trương chiến lược mà còn được thể hiện sinh động, cụ thể trong từng hành động, phong trào của quần chúng, các lực lượng chính trị, quân sự và xã hội.
Trước hết, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được thể hiện qua sự tham gia rộng khắp của các tầng lớp Nhân dân. Không phân biệt giai cấp, nghề nghiệp, vùng miền, dân tộc, tôn giáo hay xu hướng chính trị, toàn thể Nhân dân Việt Nam đã cùng nhau đứng lên vì mục tiêu chung: giành độc lập, chấm dứt ách thống trị của thực dân, phát xít. Từ nông dân, công nhân, trí thức đến tiểu thương, địa chủ yêu nước, binh lính người Việt trong quân đội Pháp – Nhật, đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi, cho đến các tín đồ tôn giáo đều tham gia tích cực vào các hoạt động ủng hộ Việt Minh, tổ chức mít-tinh, biểu tình, phá kho thóc, giành chính quyền. Đây là minh chứng sống động cho tầm vóc và chiều sâu của khối đại đoàn kết toàn dân.
Thứ hai, tinh thần đoàn kết còn được thể hiện qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chính trị, quân sự và Nhân dân. Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, mạng lưới cán bộ cách mạng được triển khai rộng khắp từ trung ương đến địa phương, phối hợp nhịp nhàng với lực lượng vũ trang cách mạng như các đội du kích, tự vệ chiến đấu, tạo nên thế trận chính trị – quân sự toàn dân. Chính sự phối hợp hiệu quả này đã làm tê liệt bộ máy chính quyền thực dân – phong kiến và tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh chóng và hầu như không đổ máu.
Thứ ba, tinh thần hy sinh, đồng lòng vì độc lập dân tộc là biểu hiện cảm động và cao cả nhất của khối đại đoàn kết. Trong suốt quá trình đấu tranh chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ và người dân đã không ngại hi sinh xương máu, chịu đựng gian khổ, bị tù đày, tra tấn để giữ vững niềm tin vào cách mạng. Khi thời cơ đến, không khí sục sôi của những ngày tháng Tám lịch sử đã cho thấy sự đồng lòng tuyệt đối giữa Đảng và nhân dân, giữa các lực lượng yêu nước, tạo nên một sức mạnh tổng hợp, đánh đổ hoàn toàn ách thống trị hơn 80 năm của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Tất cả những biểu hiện cụ thể đó chứng minh rằng, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là một khẩu hiệu chính trị mà là một sức mạnh hiện thực, có khả năng chuyển hóa thành hành động cách mạng, thành lực lượng vật chất để tạo nên thắng lợi vĩ đại. Chính tinh thần ấy đã làm nên Cách mạng Tháng Tám thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
2.2. Vận dụng Bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho giai đoạn hiện nay
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh trong mọi giai đoạn cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chứng minh rằng: khi toàn dân tộc đoàn kết một lòng, không có thế lực nào có thể ngăn cản bước tiến cách mạng. Đó không chỉ là bài học lịch sử mà còn là chân lý có giá trị trường tồn. Trong mọi giai đoạn cách mạng, từ kháng chiến chống thực dân, đế quốc đến công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay, đại đoàn kết luôn là cội nguồn của mọi thắng lợi. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cạnh tranh toàn cầu và những tác động đa chiều của các vấn đề phi truyền thống, đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên thiết yếu. Đảng ta xác định đoàn kết là “truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta”, phải được giữ gìn, bồi đắp như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Việc củng cố và phát huy tinh thần đoàn kết không chỉ nhằm xây dựng khối thống nhất chính trị – xã hội, mà còn để hình thành năng lực tự cường, bản lĩnh dân tộc, đủ sức ứng phó với mọi khó khăn, thách thức trong thời đại mới.
Hai là, tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp đông đảo Nhân dân vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong Cách mạng Tháng Tám, Mặt trận Việt Minh là biểu hiện tiêu biểu cho vai trò hạt nhân quy tụ sức mạnh toàn dân. Trong giai đoạn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Cựu Chiến binh… chính là cánh tay nối dài của Đảng trong việc phát huy tinh thần đại đoàn kết. Để phát huy hiệu quả vai trò này, cần đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng sát cơ sở, bám sát nguyện vọng thực tiễn của các tầng lớp Nhân dân; nâng cao năng lực phản biện, giám sát và phát huy vai trò đại diện, cầu nối giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chính từ hoạt động thực chất, phong phú và sáng tạo của các tổ chức quần chúng, tinh thần đoàn kết mới được lan tỏa mạnh mẽ, chuyển hóa thành sức mạnh vật chất trong thực hiện các mục tiêu phát triển, quốc phòng – an ninh và an sinh xã hội.
Ba là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở đồng thuận về lợi ích, tôn trọng sự đa dạng
Một khối đoàn kết chỉ bền vững khi được xây dựng trên nền tảng lợi ích hài hòa và sự tôn trọng lẫn nhau. Cách mạng Tháng Tám thành công bởi vì Việt Minh đã tập hợp mọi tầng lớp Nhân dân mà không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tạo sự đồng thuận về mục tiêu chung: giành độc lập dân tộc. Ngày nay, xã hội Việt Nam ngày càng đa dạng về thành phần, trình độ, quan điểm và lợi ích. Vì vậy, việc xây dựng khối đại đoàn kết cần đi đôi với cơ chế đối thoại dân chủ, minh bạch thông tin và chính sách công bằng. Nhà nước cần có chính sách bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi nhóm xã hội, đặc biệt là người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo và các tầng lớp dễ bị tổn thương. Bên cạnh đó, cần khuyến khích sự khác biệt trong khuôn khổ thống nhất, tôn trọng sự đa dạng văn hóa, nghề nghiệp, tư duy... như một nguồn lực để phát triển. Đoàn kết không có nghĩa là đồng hóa, mà là gắn kết dựa trên sự tin cậy, thấu hiểu và chia sẻ mục tiêu phát triển đất nước bền vững, công bằng.
Bốn là, tăng cường giáo dục truyền thống, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc
Cách mạng Tháng Tám là kết quả của một quá trình giáo dục và truyền lửa cách mạng kiên trì trong quần chúng Nhân dân, đặc biệt là thế hệ thanh niên, trí thức, nông dân yêu nước. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, thì việc giữ gìn và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân, đặc biệt trong giới trẻ, lại càng trở nên cấp thiết. Cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục truyền thống lịch sử, lòng tự hào dân tộc theo hướng gần gũi, sinh động, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa giáo dục chính khóa và hoạt động trải nghiệm. Đồng thời, cần khơi dậy tinh thần cống hiến, ý chí vượt khó và khát vọng phát triển đất nước trong mỗi người dân. Khi mỗi cá nhân thấm nhuần tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng, thì đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là khẩu hiệu, mà là sức mạnh sống động chảy trong từng hành động, từng quyết sách và từng đóng góp cụ thể cho sự nghiệp chung của quốc gia – dân tộc.
Năm là, cảnh giác với các âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng là chia rẽ nội bộ, phá hoại niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chia rẽ giữa các nhóm xã hội, dân tộc, tôn giáo. Chúng khai thác những điểm yếu trong quản lý xã hội, sự chênh lệch lợi ích, hoặc các vụ việc tiêu cực để kích động, xuyên tạc, gây mất đoàn kết và xói mòn khối thống nhất toàn dân. Bài học từ Cách mạng Tháng Tám cho thấy: đoàn kết chính là "tấm khiên" vững chắc chống lại mọi âm mưu phá hoại. Trong tình hình hiện nay, cần nâng cao cảnh giác, củng cố trận địa tư tưởng, chủ động truyền thông chính sách đúng đắn, xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng dân chủ, tôn giáo, sắc tộc để chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đồng thời, cần đẩy mạnh dân vận khéo, lấy lòng dân làm gốc, tạo niềm tin sâu sắc giữa Nhân dân với Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị, từ đó xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, không để kẻ thù lôi kéo, kích động.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng rực rỡ của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc – một sức mạnh đã quy tụ mọi lực lượng yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm nên cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, nhân dân đói nghèo, nền kinh tế kiệt quệ, chính tinh thần đoàn kết dân tộc đã trở thành nguồn năng lượng nội sinh mạnh mẽ, góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng. Từ thực tiễn đó, có thể khẳng định rằng tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được hun đúc trong Cách mạng Tháng Tám là một giá trị to lớn, bền vững và có ý nghĩa lịch sử sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đất nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đến nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia và hội nhập sâu rộng với thế giới. Trong bối cảnh đó, bài học về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Việc tiếp tục củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là nền tảng quan trọng để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, nâng cao năng lực tự cường, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, tạo động lực để phát triển bền vững và giữ vững chủ quyền quốc gia trong mọi tình huống.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Duẩn (2015), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
3. Trịnh Nhu, Trần Trọng Thơ (2020), Cách mạng tháng Tám 1945 - thắng lợi vĩ đại đầu tiên của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
TS Lê Mậu Nhiệm, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam