Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam

(Mặt trận) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “chiến công hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam”(1) trong thế kỷ XX. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lê-nin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng lợi đã làm giàu thêm truyền thống cách mạng Việt Nam, góp phần bổ sung lý luận về cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Lấy ý kiến Nhân dân về việc đề nghị tặng thưởng “Huân chương Lao động” hạng nhất

Bài học đoàn kết từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám

Thông báo 08-TB/BCĐTW kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật

 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, nơi Người đã chù trì Quốc dân Đại hội, quyết định Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng, ngày 20-3-1961 _Ảnh: TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(2). Với tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã viết nên trang sử chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tầm vóc, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng.

Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và dân chủ, giữa chống đế quốc và chống phong kiến.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng bao trùm, đường lối nhất quán, xuyên suốt trong tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã xác định đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, đáp ứng mong muốn thiêng liêng và cấp bách nhất của toàn thể dân tộc. Từ đó, lời kêu gọi cứu nước và những chính sách của Đảng nhằm tập hợp, đoàn kết, tổ chức quần chúng đấu tranh nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng và thực hiện. Dù trong tiến trình vận động tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đã có hàng nghìn, hàng vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địch bắt, sát hại, song nhân dân ta vẫn gửi trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền.

Đồng chí Phạm Văn Đồng khẳng định: “Đối với dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã đau khổ không sao kể xiết dưới chế độ thực dân thì khẩu hiệu độc lập dân tộc tất nhiên là nguyện vọng, là ý chí thiết tha và cao đẹp như cuộc sống; còn khẩu hiệu cách mạng xã hội chủ nghĩa thì phải nói rằng đây là một cái gì còn mới lạ. Tuy vậy, chỉ cần giải thích gắn gọn và dễ hiểu thì nó có sức hấp dẫn lạ thường, bởi nó sẽ đem lại những điều xưa nay con người vẫn mơ ước nhưng không bao giờ nghĩ tới nó sẽ là sự thật trong cuộc sống. Trong hai cuộc kháng chiến, ngọn cờ đòi độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội đã thấm sâu vào tâm trí dân tộc Việt Nam và mỗi người Việt Nam, là động lực sâu xa và mạnh mẽ làm nên cuộc chiến tranh nhân dân, nhân tố quyết định thắng lợi, mãi mãi sống trong truyền thống của dân tộc… Thực tiễn lịch sử là chứng minh hùng hồn khẩu hiệu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội đã góp phần làm nên sức mạnh về chính trị và tư tưởng… phù hợp với những quy luật của lịch sử, phù hợp với học thuyết Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(3).

Nắm bắt kịp thời những chuyển biến của thời cuộc, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 của Đảng (tháng 11-1939) chỉ rõ: Đặc điểm cơ bản của tình hình Đông Dương lúc này là tình trạng chiến tranh và các chính sách phát xít của đế quốc Nhật - Pháp thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Mâu thuẫn chủ yếu và gay gắt nhất lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương. Từ sự phân tích đó, hội nghị xác định, tuy cách mạng giải phóng các dân tộc Đông Dương bao gồm cả hai nội dung chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chủ yếu nhất. Cách mạng phải “đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”(4).

Hội nghị Trung ương 6 quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương. Để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc vào Mặt trận, Đảng ta chủ trương: Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền xô viết công nông bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hòa. Hội nghị Trung ương 6 đã đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt cơ sở, nền tảng cho toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945, mở đường đi đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), Đảng ta nhận định: “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”(5).

Từ nhận định này, hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(6). Hội nghị đi đến thống nhất về chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng trong phạm vi từng nước Đông Dương. Mỗi nước Đông Dương cần thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc lập; xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn này.

Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng đề ra từ Hội nghị Trung ương 6, thể hiện rõ sự phát triển sáng tạo về mặt chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và dân chủ, giữa chống đế quốc và chống phong kiến, có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

 Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang tại Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và Lễ khánh thành Tượng đài “Bác Hồ ở Tân Trào”_Ảnh: TTXVN

Xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc của khối liên minh công nông, đấu tranh vì độc lập, tự do.

Thấm nhuần và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Đảng ta xác định rõ: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết”(7). Bởi vậy, xây dựng lực lượng lúc này là nhiệm vụ trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Hội nghị Trung ương 6 của Đảng xác định: “Lực lượng chính của cách mệnh là công nông dựa vào các tầng lớp trung sản thành thị, thôn quê và đồng minh trong chốt lát hoặc trung lập giai cấp tư sản bổn xứ, trung tiểu địa chủ. Mặt trận ấy phải dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp”(8). Đồng thời chỉ rõ: “Công nông là hai cái lực lượng chính của cách mệnh, sự đồng minh chặt chẽ của công nông là vấn đề sống chết của cách mệnh, không có sự đồng minh ấy thì cách mệnh không thể thắng lợi được”(9). Đến Hội nghị Trung ương 8, chủ trương này được bổ sung, hoàn chỉnh: “Tập trung cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư sản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật, đó là công việc cốt yếu của Đảng ta”(10).

Để tập trung lực lượng cách mạng vào thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, hội nghị tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và nêu thêm khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới “thực hiện người cày có ruộng”. Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, “sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”(11).

Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức được thành lập. Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh tập trung trong hai điều: “1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”(12). Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh được đút kết thành 10 chính sách lớn, sau này trở thành những chính sách cơ bản của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.  

Từ cuối năm 1942, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều thay đổi. Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận Việt Minh, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được, tập trung mọi khả năng chống phát xít Nhật - Pháp; liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản và địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số, Hoa kiều; lập Hội Văn hóa cứu quốc ở các thành phố nhằm đoàn kết trí thức và các nhà văn hóa. Mặt trận Việt Minh được mở rộng trên cơ sở không ngừng củng cố và phát triển các tổ chức của công nhân và nông dân, là “xương sống của Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp”(13). Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương nhằm tập hợp tất cả mọi lực lượng chống phát xít ở Đông Dương.

Trong những năm 1943 - 1944, hầu hết các đảng bộ địa phương thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ đã lãnh đạo, xây dựng và củng cố các đoàn thể Việt Minh ở nông thôn và thành thị. Tổ chức Việt Minh phát triển mạnh trong các nhà máy, trường học và trong nhiều khu phố. Năm 1943, Trung ương Đảng ban hành Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong đó chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của các nhà văn hóa Việt Nam là chống lại văn hóa phát xít và phong kiến lạc hậu, xây dựng nền văn hóa “dân tộc, khoa học và đại chúng”. Tháng 4-1943, Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập, thu hút nhiều trí thức, nhà văn hóa tham gia. Tháng 6-1944, các nhà trí thức yêu nước tập hợp lại thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam và tham gia vào Mặt trận Việt Minh, làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít thêm sâu rộng.

Cùng với phong trào của công nhân ở các đô thị, phong trào nông dân chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chống cướp lúa, cướp đất, đi phu… do Việt Minh tổ chức đã thu được nhiều kết quả. Công tác vận động binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp cũng được tăng cường, nhiều binh lính đã quay sang hàng ngũ của Việt Minh. Ngoài ra, Đảng ta còn tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc và tranh thủ vận động Việt kiều ở nước ngoài tham gia phong trào giải phóng dân tộc(14).

Thông qua các hoạt động của Mặt trận Việt Minh với nhiều hình thức tổ chức đa dạng, nội dung hoạt động linh hoạt, phù hợp với nguyện vọng và quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong cao trào kháng Nhật, cứu nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, uy tín và sức mạnh của Đảng được nhân lên gấp bội.

 

Kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền

Theo Ph. Ăng-ghen, để một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng những thế lực thực dân, đế quốc lớn mạnh, thì phương thức tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh, mà trung tâm là chuyển hóa tương quan lực lượng, không được giới hạn trong những phương thức thông thường, mà phải sử dụng khởi nghĩa của quần chúng, chiến tranh cách mạng, những đội du kích ở khắp nơi. C. Mác nhấn mạnh: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới”(15). Sau đó,  Ph. Ăng-ghen nêu rõ: “Bạo lực còn đóng một vai trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng”, “bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”(16). Tiếp thu quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng và làm sáng tỏ hơn vấn đề: không có bạo lực cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản.

Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng ta cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Khởi nghĩa vũ trang không chỉ là một khoa học, mà đồng thời còn là một nghệ thuật, do đó phải nắm vững và tuân theo những quy luật hết sức chặt chẽ.  Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) khẳng định: “Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh”(17). Trong điều kiện một nước thuộc địa như Việt Nam, kẻ thù luôn dùng bạo lực đàn áp quần chúng, thì bạo lực cách mạng là biện pháp duy nhất để giành độc lập, tự do. Đó là quy luật của mọi cuộc cách mạng mang tính nhân dân thật sự.

Bạo lực cách mạng không đơn thuần chỉ dựa vào tổ chức vũ trang và biểu hiện bằng hình thức đấu tranh vũ trang. Cơ sở của bạo lực cách mạng gồm hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, được biểu hiện bằng hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang và sự kết hợp cả hai hình thức đó. Tuy nhiên, không phải cuộc đấu tranh chính trị nào cũng được coi là bạo lực cách mạng, mà chỉ có những cuộc đấu tranh nhằm vào bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, khi vấn đề giành chính quyền được đặt ra mà thôi.

Từ nhận thức trên, Đảng ta chỉ đạo xây dựng chỗ dựa của bạo lực cách mạng gồm cả dân tộc, được tổ chức thành hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngay từ khi mới ra đời, với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng ta đã nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đã quy tụ lực lượng và sức mạnh cả dân tộc, dấy lên mạnh mẽ cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931 trên quy mô lớn, huy động đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt, làm rung chuyển trận địa của chủ nghĩa đế quốc ở nông thôn. Lực lượng chính trị đã được tạo ra từ những phong trào này.

Trong thời kỳ 1936 - 1939, Đảng ta phát động phong trào dân chủ rộng lớn chưa từng thấy ở cả thành thị và nông thôn, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp xã hội và cả một bộ phận người Pháp có xu hướng chống phát xít, với những hình thức tổ chức và đấu tranh phong phú. Đảng tuyên truyền và giáo dục để phổ biến sâu rộng lý luận cách mạng, đường lối và chính sách của Đảng trong quần chúng nhân dân; chú trọng giáo dục và rèn luyện quần chúng thông qua thực tiễn đấu tranh cho các quyền dân sinh, dân chủ, từ đó xây dựng một lực lượng chính trị hùng hậu, đông đảo, làm cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cách mạng được xây dựng, gồm lực lượng vũ trang tập trung (Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân) và lực lượng bán vũ trang (gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu rộng khắp). Quá trình chuẩn bị lực lượng gồm cả tổ chức và đấu tranh, thông qua đấu tranh để rèn luyện lực lượng, củng cố tổ chức. Cả hai lực lượng chính trị và vũ trang đều là chỗ dựa của bạo lực cách mạng, là điều kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.

Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lực lượng quần chúng có vũ trang thô sơ là lực lượng đông đảo nhất, giữ vị trí quyết định. Tuy số lượng không nhiều, thiếu thốn về trang bị nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động quân sự ở một số nơi, gây thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng nòng cốt, xung kích, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền khi thời cơ đến.

Kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động, sáng tạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền

Thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền là thời điểm hội tụ những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi, cho phép phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, thời cơ cách mạng hợp thành bởi ba yếu tố chủ yếu: Thứ nhất, giai cấp và tầng lớp thống trị bên trên đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, không thể kiểm soát nổi tình hình, trở nên bất lực, không còn duy trì chế độ thống trị như cũ. Thứ hai, các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới rơi vào tình trạng cơ cực, bần cùng, không thể chịu đựng được nữa. Mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị đã gay gắt đến cực độ và quần chúng nhân dân sẵn sàng đi tới một hành động giải phóng. Thứ ba, tầng lớp, bộ phận trung gian, những người có tinh thần dân tộc, nhất là những trí thức yêu nước có tư tưởng dân chủ, tiến bộ, kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử và ngả về phía cách mạng. V. I. Lê-nin nhấn mạnh: “Lịch sử sẽ không tha thứ cho những người cách mạng có thể thắng lợi hôm nay (và chắc chắn sẽ thắng lợi hôm nay) mà lại để chậm trễ; vì để đến ngày mai, không khéo họ sẽ mất nhiều, không khéo họ sẽ mất tất cả”(18).

Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang và tình thế cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc đánh giá, xác định đúng thời cơ và hành động kịp thời, mau lẹ, coi đây là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Trong tác phẩm Con đường giải phóng, Người nêu 3 điều kiện của thời cơ khởi nghĩa: Một là, chính quyền thực dân, đế quốc đã lung lay, bối rối đến cao độ, không thể nào ngồi yên giữ địa vị như trước. Hai là, quần chúng nhân dân đói khổ đã căm thù thực dân, đế quốc đến cực điểm, thấy cần phải đồng tâm hiệp lực, nổi dậy lật đổ ách thống trị của thực dân, đế quốc. Ba là, đã có một chính đảng cách mạng đủ sức tổ chức lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy khởi nghĩa theo một đường lối đúng đắn, kế hoạch phù hợp, bảo đảm giành thắng lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa(19). Người nhấn mạnh: “Làm cách mệnh phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi mọi chốn, mới chắc thắng”(20).

Đánh giá chính xác sự phát triển của thời cuộc, tháng 10-1944, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”(21). Trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa: Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện, hàng ngũ chỉ huy của Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Khi đó, “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi… Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”(22). Tuy nhiên, thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng thời gian từ khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào nước ta. Đó là lúc kẻ thù cũ đã ngã gục, kẻ thù mới chưa kịp đến, so sánh lực lượng có lợi nhất đối với cách mạng.

Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào, quyết định phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, đúng thời điểm, Cách mạng Tháng Tám đã giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Đó là một thành công điển hình về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đoán, nhận định chính xác thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ để phát động toàn dân nổi dậy. Có thể nói, “những người lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám đã khéo chọn lúc để gióng một đòn chí tử, khéo chọn lúc để phát động khởi nghĩa, ấy là lúc tình hình đã hết sức khủng hoảng, đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu cho đến cùng, hậu bị quân đã sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong và hàng ngũ quân địch đã rối loạn, hoang mang đến cực điểm”(23).

 

Xây dựng Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh giành chính quyền

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện thể hiện đầy đủ, tập trung và tiêu biểu các phẩm chất, năng lực, bản lĩnh và sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, trước hết là của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với một trí tuệ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán trước những bước ngoặt của lịch sử Việt Nam, chủ động chuẩn bị mọi mặt cho việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử theo hướng có lợi nhất cho dân tộc và nhân dân ta. Đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng quần chúng phải được đảng cách mạng chân chính động viên, tổ chức và lãnh đạo thì mới phát huy được tác dụng của mình”(24).

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định rõ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, để đưa cách mạng đến thắng lợi phải do nhân dân đứng lên tự giải phóng cho mình. Do đó, trải qua một quá trình lâu dài, Đảng kiên trì tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước, tiến bộ bằng các hình thức thích hợp trong một Mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy cao nhất sức mạnh của cả dân tộc đấu tranh cho mục tiêu giải phóng dân tộc. Từ đó, Đảng ta đã tiến hành xây dựng thành công đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các quan điểm của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong tiến trình Cách mạng Tháng Tám. Đây là thành quả của quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện thực tế Việt Nam; tổng kết những kinh nghiệm cách mạng và kinh nghiệm lịch sử của dân tộc ta; là kết tinh của tư duy độc lập, sáng tạo, khoa học và cách mạng; là sự thể hiện tinh thần tự lực, tự cường, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng cách mạng, dân chủ trên thế giới, nhưng không ỷ lại, trông chờ ở bất cứ một thế lực nào. Đường lối đó đáp ứng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách của toàn dân về độc lập, tự do, hạnh phúc(25).

Với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh năm 1941, phong trào cách mạng phát triển chưa từng thấy. Đây là một sáng tạo lớn của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Chính nhờ việc xây dựng có hệ thống, vững chắc, rộng khắp các tổ chức quần chúng yêu nước trong Mặt trận Việt Minh mà cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và ít đổ máu.

Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Đảng ta nhận định: Cuộc đảo chính với việc xác lập sự thống trị của phát xít Nhật và tay sai đã tạo ra những nguy cơ lớn cho sự tồn vong của dân tộc ta, nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện những điều kiện thuận lợi mới cho phong trào cách mạng. Trung ương Đảng nêu khẩu hiệu: “Đánh đuổi phát xít Nhật!”, “Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân!”, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Đảng ta đã huy động đông đảo các tầng lớp nhân dân, từ già đến trẻ, từ miền núi đến miền xuôi, từ thành thị đến nông thôn, thu hút rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, lập chính quyền bộ phận, xây dựng và mở rộng căn cứ địa cách mạng, gấp rút chuẩn bị tiến lên Tổng khởi nghĩa.

Ngày 13-8-1945, nhận được thông tin phát xít Nhật bại trận và sắp đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(26). Quân lệnh số I của Ủy ban Khởi nghĩa truyền đi như hồi kèn xung trận, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua Mệnh lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh. Đại hội cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, trong đó nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(27).

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 nổ ra và kết thúc thắng lợi chỉ trong vòng 15 ngày, minh chứng cho sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Nếu không có Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh, thì cách mạng sẽ chuyển sang một tình thế khác. Nếu Đảng và Mặt trận Việt Minh không thống nhất được các tầng lớp đồng bào, không có uy tín trong nhân dân, không lãnh đạo được quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền, thì cách mạng có thể thất bại… Một cuộc cách mạng của thời đại mới muốn thắng lợi phải thực sự là một cuộc cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, được chuẩn bị và lãnh đạo bởi một đảng tiên phong cách mạng. Cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã đạt được mục tiêu giành chính quyền, mục đích trực tiếp của mọi cuộc cách mạng, vì nó là sự nghiệp của toàn dân đoàn kết, kiên quyết chiến đấu để tự giải phóng, do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”(28).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phát xít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước. Như Đảng ta đã khẳng định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã tạo ra một nguồn phấn khởi cách mạng mới trong nhân dân ta. Khí thế cách mạng dâng lên mạnh mẽ như sóng lớn của biển cả”(29).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là nguồn cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức, tăng cường sức mạnh cho các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh cho độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Những giá trị to lớn và bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám cần được tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, để khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

PGS, TS VŨ TRỌNG LÂM
Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

-------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 6
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 7, tr. 25
(3) Phạm Văn Đồng: “Tầm vóc và ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam mới”, Tạp chí Cộng sản, số 16, năm 1995
(4), (8), (9) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 539, tr. 539 - 540, tr. 542
(5), (6), (10), (11), (12), (13) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 112, tr. 113, tr. 112 - 113, tr. 150, tr. 470, tr. 294
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 230
(14) Dẫn theo Đinh Quang Hải: “Đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất là nhân tố quyết định thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam”, in trong sách Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 182
(15) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 1043
(16) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tậpSđd, t. 20, tr. 259
(17) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 102
(18) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 34, tr. 571
(19) Dẫn theo Hoàng Minh Thảo: “Thế và thời trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-2003, tr. 7
(20) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 222
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 3, tr. 538
(22) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 424
(23), (24), (28) Trường Chinh: “Những ưu điểm của Cách mạng Tháng Tám”, in trong sách Cách mạng Tháng Tám - Một sự kiện vĩ đại của thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 13, tr. 9, tr. 14 - 15
(25) Xem: Trịnh Nhu, Trần Trọng Thơ: Cách mạng Tháng Tám 1945 - Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 366
(26) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 129 - 130
(27) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 596
(29) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 21, tr. 497